3. Hoạt động nội thương
Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã làm cho mọi hoạt động của nền kinh tế cũng như hoạt động thương nghiệp phải chuyển hướng cho phù hợp với tình hình mới. Trước hết phải di chuyển và phân tán kho tàng, hàng hóa, phân bố lại lực lượng hàng hóa dự trù ở từng cấp, từng vùng để đề phòng địch đánh phá, nhanh chóng bố trí lại và chiếm lĩnh địa bàn hoạt động mới, mở thêm mạng lưới ở nông thôn, nơi có đông đồng bào, cơ quan, xí nghiệp sơ tán đến. Giờ giấc và phương thức hoạt động mua bán phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phòng không.
Trong những tháng không quân Mỹ dội bom ác liệt, các điểm bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh (gồm mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán) không ngừng được mở rộng.
Tổ chức hợp tác xã mua bán từ huyện, tỉnh đến Trung ương đều do các cơ quan quản lý nhà nước về thương nghiệp phụ trách. Ở tỉnh, thành phố, các ban quản lý hợp tác xã mua bán có vị trí như một phòng chức năng của Sở Thương nghiệp, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn phong trào hợp tác xã mua bán trong tỉnh, thành phố. Ở Trung ương có Ban Quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam.
Mạng lưới hợp tác xã mua bán được củng cố trong thời bình đã phát triển nhanh chóng trong thời chiến. Từ năm 1965, khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất diễn ra, các trung tâm mua bán của khu vực đô thị phân tán xuống các huyện, xã; thị trường nông thôn trở thành đối tượng phục vụ chính. Năm 1965 có 8.485 hợp tác xã mua bán, năm 1968 có 10.628 hợp tác xã mua bán - là thời điểm có số hợp tác xã mua bán cao nhất, sau đó giảm dần ở thời kỳ khôi phục kinh tế những năm 1973 - 1975, với 9.023 hợp tác xã mua bán năm 1975.
Ngày mùa trên sân kho hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Nghĩa Hưng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Điểm bán lẻ của hợp tác xã mua bán gấp gần 2 lần so với điểm bán lẻ của mậu dịch quốc doanh, nhưng tổng mức bán lẻ của các hợp tác xã mua bán chỉ trên dưới 20% so với mậu dịch quốc doanh.
Tuy nhiên, hợp tác xã mua bán còn có chức năng như “cánh tay nối dài” của mậu dịch quốc doanh trong thu mua nông sản, thực phẩm và bán hàng công nghiệp trên thị trường nông thôn, đồng thời phải tự kinh doanh để phục vụ sản xuất và đời sống nông dân trên địa bàn. Mặc dù, mức tăng bình quân của nông nghiệp chỉ khoảng 1,2% mỗi năm; đến năm 1975 nông nghiệp cũng chỉ chiếm 29% trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội, nhưng khối lượng thu mua lương thực, thực phẩm từ các hợp tác xã nông nghiệp để cung cấp cho quốc phòng và các ngành kinh tế khác rất lớn1. Hầu hết các địa phương đều đạt hoặc vượt nghĩa vụ đóng góp các chỉ tiêu nông sản, ngay ở cả những nơi từng xảy ra chiến tranh ác liệt.
Đặc biệt, trong hai lần chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, xã viên hợp tác xã mua bán còn là những chiến sĩ vận chuyển, áp tải bảo đảm an toàn hàng hóa đi qua các trọng điểm bị đánh phá ác liệt về kho; họ cũng là người đưa hàng hóa tới tận các chiến hào, mâm pháo cho bộ đội, dân quân. Nhiều xã viên đã anh dũng hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.
Các phương thức hoạt động mua bán cũng được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện chiến tranh. Các hợp tác xã mua bán chuyển các hoạt động giao dịch thương mại ở những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát những nơi có nhu cầu mới phát sinh để phục vụ. Dọc các tuyến đường giao thông mới, các cơ sở sản xuất được xây dựng, các nơi có dân cư sơ tán đều có thể trở thành các tụ điểm mua bán và lưu thông hàng hóa do các hợp tác xã cung ứng.
Trong những năm 1965 - 1975, hai lực lượng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán có sự đóng góp tích cực trong đời sống xã hội. Về tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội, cả hai lực lượng có mức tăng trưởng khoảng 2 lần, trong đó, mậu dịch quốc doanh tăng 1,9 lần, hợp tác xã mua bán tăng 2,2 lần, nắm tới 75 - 80% tổng mức bán lẻ trong nước; trong khi thị trường tự do (lúc đó gọi là thị trường không có tổ chức) nắm khoảng 20 - 25% nhưng có mức tăng trưởng cao hơn so với 2 lực lượng của thương nghiệp quốc doanh (3,7 lần).
Cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng mang hàng đến cảng bán cho công nhân, tháng 01/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Thị trường tự do bao gồm chợ nông thôn, chợ khu vực thành thị, chợ chuyên bán các mặt hàng nông sản. Đầu vào của chợ nông thôn là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, nông thổ sản do người dân sản xuất, tăng gia thêm, sau khi đã làm nghĩa vụ với Nhà nước; và những mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, hàng xén do những người buôn ngồi, buôn chuyến đưa về. Chính quyền địa phương có nhiều biện pháp giúp đỡ chợ nông thôn (như: xây, lợp lại các quán chợ, mở thêm các chợ mới), nhờ đó thu được thuế, có thêm nguồn kinh phí cho địa phương.
Chợ khu vực thành thị thời kỳ 1965 - 1975 bao gồm những quầy hàng của mậu dịch quốc doanh, các tổ hợp tác và những người buôn bán “tự do”. Bên cạnh đó, còn có chợ “cóc”, chợ “xanh”, hay những người bán hàng rong...
Với chợ nông sản, lương thực, thực phẩm được lưu thông từ nông thôn ra thành thị nhờ các thương nhân. Những người buôn hàng chuyến đã tạo ra những luồng hàng ổn định theo mùa và theo tuyến để đưa nông sản về thành phố. Hà Nội có nhiều chợ bán buôn nông sản, một trong những chợ lớn nhất là chợ Bắc Qua. Ở đây, vừa có Ga đầu cầu Long Biên, vừa có Bến Nứa là những đầu mối giao thông của cả đường bộ, đường sắt và đường thủy để chuyên chở nông sản từ các nơi về Thủ đô. Chợ họp từ nửa đêm đến tảng sáng, không chỉ vì sợ máy bay Không quân Hoa Kỳ, mà chủ yếu là vì phải kịp đưa hàng về các chợ nhỏ từ sáng sớm2.
Đây cũng là thời kỳ mở rộng sử dụng tem phiếu, cung cấp hàng hóa theo giá bao cấp cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân mà nguyên nhân chủ yếu là do cung cầu mất cân đối, trong khi phải giữ giá cả ổn định, phải thực hiện nhiều chính sách đối với nhiều loại đối tượng phục vụ... Bản thân tem phiếu mang chức năng và giá trị của tiền tệ nên việc in, phát hành và quản lý chúng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc như đối với tiền giấy. Việc vận chuyển cũng đòi hỏi nghiêm ngặt giống như vận chuyển tiền.
Việc quản lý và cấp phát tem phiếu là một việc làm vô cùng phức tạp, đặc biệt tại thời điểm này hoàn toàn dùng phương pháp tính toán và thống kê thủ công, tốn nhiều giấy mực và nhân lực. Ngoài ra, hệ thống tem phiếu có rất nhiều chủng loại. Mỗi loại lại có nguyên tắc và chế độ cấp phát khác nhau, cho các đối tượng khác nhau. Có loại tem phiếu căn cứ theo mức lương, chức vụ, cấp bậc lao động; có loại căn cứ theo độ tuổi nhân khẩu, có loại chỉ giới hạn cho cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân thành thị, có loại lại mở rộng cho toàn thể nhân dân... Đối tượng hưởng theo mỗi loại tem phiếu đó cũng thường xuyên thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể năm 1965, số dân phi nông nghiệp chỉ là 3,105 triệu người và tổng số công nhân, viên chức là 971 nghìn người. Nhưng đến năm 1975, số dân phi nông nghiệp đã tăng lên 5,125 triệu người (tăng 65%) và công nhân, viên chức là 1,753 triệu người (tăng 80%)3.
Theo quy định, mỗi năm cấp tem phiếu một lần. Nhưng trong năm lại phát sinh những trường hợp sinh, tử, cưới xin, tăng tuổi, bệnh tật,... nên phải cấp phát và điều chỉnh liên tục.
Chính vì sự phức tạp đó, nên việc cấp phát và quản lý tem phiếu đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Bộ Nội thương, Bộ Lương thực, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan chủ quản đương sự, công an, công đoàn, có khi cả Hội Liên hiệp phụ nữ... Từ đó đã hình thành cả một hệ thống những người làm công việc quản lý và cấp phát tem phiếu từ cấp xã, huyện, tỉnh, thành phố lên tới Trung ương; từ các cơ quan, xí nghiệp, công trường, trường học lên các sở, bộ...
Hàng hóa do Nhà nước cung cấp thông qua mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán trong tổng số chi của gia đình công nhân, viên chức chiếm tỷ trọng rất cao, khoảng 70% trong suốt thời gian chiến tranh và hòa bình xen kẽ (1965 - 1975). Trong phân bố lao động xã hội của các ngành kinh tế, năm 1965, số lao động hoạt động trong ngành Thương nghiệp, cung ứng vật tư chiếm 2,3%, đến năm 1975 tăng lên 3,1%. Về chỉ số phát triển lao động thường xuyên khu vực nhà nước trong lĩnh vực thương nghiệp, lấy năm 1955 là 1 thì đến năm 1965 bằng 7,4 lần; năm 1971 bằng 7,8 lần; năm 1975 bằng 11,1 lần. Về vốn đầu tư xây dựng của Nhà nước ở khu vực thương nghiệp và cung ứng vật tư, lấy bình quân năm của giai đoạn khôi phục 1955 - 1957 là 1 thì đến giai đoạn 1961 - 1965 đạt 1,89 lần; giai đoạn 1966 - 1971 đạt 3,82 lần; giai đoạn 1972 - 1975 đạt 6,38 lần4.
Những số liệu trên cho thấy, xét theo tiêu chí nào thì trong giai đoạn 1965 - 1975, lực lượng thương nghiệp quốc doanh đều có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, tổng giá trị hàng hóa do thương nghiệp quốc doanh thu mua trong nước tăng trưởng mạnh ở tất cả các quãng thời gian hòa bình và chiến tranh luân phiên.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), các hợp tác xã nông nghiệp và các nông trường trên toàn miền Bắc đã được trang bị 15.163 máy phát điện, 9.784 máy kéo, 22.127 máy công tác. Năm 1966, hợp tác xã nông nghiệp được trang bị máy phát điện và máy công tác, chiếm 10,9% tổng số hợp tác xã nông nghiệp, năm 1967 chiếm 19,8% và năm 1969 là 29,9%. Trong xây dựng cơ bản phục vụ nông nghiệp, số lượng công trình thủy nông lớn được xây dựng trong những năm 1965 - 1968 đã tăng cao nhất so với các thời kỳ trước đó. Trong những năm 1965 - 1968 tăng 1,5 lần so với thời kỳ 1961 - 1964; tăng 9,6 lần so với thời kỳ 1958 - 1960; tăng 3,3 lần so với thời kỳ 1955 - 19575.
Đây là cơ sở để thương nghiệp phục vụ, cung ứng tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành kinh tế khác.
Nhờ đó, ở khắp nơi trên miền Bắc đã xuất hiện hàng nghìn hợp tác xã đạt và vượt 5 tấn thóc/ha đất gieo trồng hai vụ lúa - điều mà trước đó chỉ là ước mơ của người nông dân. Nếu năm 1964 mới có 5 huyện và một số hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha thì đến năm 1967 đã có 30 huyện với 2.551 hợp tác xã.
Sổ cung ứng xăng dầu
Dưới thời bao cấp, xăng dầu là mặt hàng được Nhà nước quản lý chặt chẽ và chỉ cấp theo định mức cho những đơn vị có nhu cầu sử dụng, không phân phối đại trà trên thị trường cho người dân.
Các đơn vị được cấp xăng dầu sẽ được Tổng Công ty Xăng dầu mỡ (nay là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) cấp một Sổ cung ứng xăng dầu. Nội dung sổ thể hiện rõ lượng nhiên liệu, loại nhiên liệu và thời điểm cung ứng. Sổ cung ứng này chỉ có giá trị trong một năm. Cuối năm, đơn vị được cấp sổ phải mang sổ cũ đến đơn vị cung ứng vật tư địa phương để đối chiếu và đổi sổ mới.
Kể từ tháng 01/1987, xăng dầu bắt đầu được bán lẻ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Lúc này nguồn cung nhiên liệu tại Việt Nam bắt đầu được cải thiện, Sổ cung ứng xăng dầu dần được loại bỏ.
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd.
Nhìn theo Chỉ số phát triển thống kê ở bảng trên, ta thấy rõ hơn sức mua phát triển vượt bậc đối với hàng công nghiệp.
Sau 1965, ngành Thương mại chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, ra sức thu mua nhằm nắm nguồn hàng để trang trải cho nhu cầu của sản xuất và đời sống, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh, trên cơ sở đó tăng nhanh khối lượng hàng hóa đưa ra tiền tuyến và cung ứng cho vùng mới giải phóng ở miền Nam. Về chỉ số khối lượng vận chuyển chi viện cho tiền tuyến những năm 1965 - 1971, lấy năm 1965 là 1 thì năm 1966 là 2,4; năm 1967 là 4,4; năm 1968 là 8,0; năm 1969 là 7,6; năm 1970 là 9,4; năm 1971 là 9,0. Trong hai năm 1973 - 1974, có khoảng 39,7 nghìn tấn vật chất được vận chuyển vào Nam, bằng 54% tổng khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong 16 năm trước đó. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, có 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải là từ hậu phương miền Bắc chuyển vào Nam.
Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh, tháng 4/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Tính cộng đồng trong đám cưới
Năm 1973, anh trai tôi, làm ở Viện Thiết kế máy Công nghiệp, cưới vợ. Đó là những năm tháng hòa bình đầu tiên sau những trận không kích ác liệt bằng B.52 trong 12 ngày đêm trên bầu trời miền Bắc, nên những chuyện như dựng nhà, đốt lò gạch mới hay làm đám cưới lúc đó vui lắm.
Là viên chức nhà nước nên cuộc sống vật chất của anh tôi khá dư dả. Lương 74 đồng, gấp hơn 2,7 so với mức lương thấp nhất của công nhân, viên chức hồi đó là 27 đồng 3 hào. Hằng tháng được mua theo giá bao cấp nhiều loại lương thực, thực phẩm thiết yếu như gạo 15 kg, thịt 1,5 kg, đường 1 kg; cao hơn tiêu chuẩn của nhân dân, mỗi tháng có 3 lạng thịt, 1 lạng đường. Ngoài ra còn có phiếu mua đậu phụ, trứng vịt, nước mắm, thậm chí là cá biển.
Khi cưới vợ, anh tôi được mua 2 tút thuốc lá, 4 bao chè, 4 kg bánh kẹo, 1 bộ chăn màn và giường chiếu (do hết giường nên được đổi sang tủ), 1 cái phích, 1 cái chậu và 1 cái mâm.
Tiêu chuẩn này là mơ ước của nhiều người dân. Nhưng để chuẩn bị cho đám cưới, anh tôi cũng phải gom tiêu chuẩn thuốc lá, thịt, đường của 14 anh em cùng phòng. Mẹ tôi ở quê bán thóc mua bột mì, trứng, đường để làm kẹo, bánh quy gai, bánh quy xốp, bánh vòng vừng...
Một điều may mắn là ông bà tôi có... 8 người con. Nên riêng các cô, chú nhà tôi đã huy động được “lực lượng” gạo, gà, vịt, chè, mứt sen... khá hùng hậu. Thậm chí, bác cả nhà tôi nghèo nhất cũng ủng hộ được 3 bao tải mùn cưa (các bạn đừng cười, thứ này hồi đó rất quý).
Hỗ trợ nhau trong các sự kiện dựng vợ, gả chồng, làm nhà thời đó là chuyện bình thường; như một câu nói phổ biến hồi đó: “Có ai lo hết được cho mình mọi thứ đâu!”.
Nguồn: Theo ký ức của một phóng viên Tạp chí Công Thương.
1. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tr.372.
2. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr165.
3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.169.
4. Xem Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd, tr.138, 142, 143.
5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.60-61.
3. Hoạt động nội thương
Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã làm cho mọi hoạt động của nền kinh tế cũng như hoạt động thương nghiệp phải chuyển hướng cho phù hợp với tình hình mới. Trước hết phải di chuyển và phân tán kho tàng, hàng hóa, phân bố lại lực lượng hàng hóa dự trù ở từng cấp, từng vùng để đề phòng địch đánh phá, nhanh chóng bố trí lại và chiếm lĩnh địa bàn hoạt động mới, mở thêm mạng lưới ở nông thôn, nơi có đông đồng bào, cơ quan, xí nghiệp sơ tán đến. Giờ giấc và phương thức hoạt động mua bán phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phòng không.
Trong những tháng không quân Mỹ dội bom ác liệt, các điểm bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh (gồm mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán) không ngừng được mở rộng.
Tổ chức hợp tác xã mua bán từ huyện, tỉnh đến Trung ương đều do các cơ quan quản lý nhà nước về thương nghiệp phụ trách. Ở tỉnh, thành phố, các ban quản lý hợp tác xã mua bán có vị trí như một phòng chức năng của Sở Thương nghiệp, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn phong trào hợp tác xã mua bán trong tỉnh, thành phố. Ở Trung ương có Ban Quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam.
Mạng lưới hợp tác xã mua bán được củng cố trong thời bình đã phát triển nhanh chóng trong thời chiến. Từ năm 1965, khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất diễn ra, các trung tâm mua bán của khu vực đô thị phân tán xuống các huyện, xã; thị trường nông thôn trở thành đối tượng phục vụ chính. Năm 1965 có 8.485 hợp tác xã mua bán, năm 1968 có 10.628 hợp tác xã mua bán - là thời điểm có số hợp tác xã mua bán cao nhất, sau đó giảm dần ở thời kỳ khôi phục kinh tế những năm 1973 - 1975, với 9.023 hợp tác xã mua bán năm 1975.
Ngày mùa trên sân kho hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Nghĩa Hưng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Điểm bán lẻ của hợp tác xã mua bán gấp gần 2 lần so với điểm bán lẻ của mậu dịch quốc doanh, nhưng tổng mức bán lẻ của các hợp tác xã mua bán chỉ trên dưới 20% so với mậu dịch quốc doanh.
Tuy nhiên, hợp tác xã mua bán còn có chức năng như “cánh tay nối dài” của mậu dịch quốc doanh trong thu mua nông sản, thực phẩm và bán hàng công nghiệp trên thị trường nông thôn, đồng thời phải tự kinh doanh để phục vụ sản xuất và đời sống nông dân trên địa bàn. Mặc dù, mức tăng bình quân của nông nghiệp chỉ khoảng 1,2% mỗi năm; đến năm 1975 nông nghiệp cũng chỉ chiếm 29% trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội, nhưng khối lượng thu mua lương thực, thực phẩm từ các hợp tác xã nông nghiệp để cung cấp cho quốc phòng và các ngành kinh tế khác rất lớn1. Hầu hết các địa phương đều đạt hoặc vượt nghĩa vụ đóng góp các chỉ tiêu nông sản, ngay ở cả những nơi từng xảy ra chiến tranh ác liệt.
Đặc biệt, trong hai lần chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, xã viên hợp tác xã mua bán còn là những chiến sĩ vận chuyển, áp tải bảo đảm an toàn hàng hóa đi qua các trọng điểm bị đánh phá ác liệt về kho; họ cũng là người đưa hàng hóa tới tận các chiến hào, mâm pháo cho bộ đội, dân quân. Nhiều xã viên đã anh dũng hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.
Các phương thức hoạt động mua bán cũng được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện chiến tranh. Các hợp tác xã mua bán chuyển các hoạt động giao dịch thương mại ở những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát những nơi có nhu cầu mới phát sinh để phục vụ. Dọc các tuyến đường giao thông mới, các cơ sở sản xuất được xây dựng, các nơi có dân cư sơ tán đều có thể trở thành các tụ điểm mua bán và lưu thông hàng hóa do các hợp tác xã cung ứng.
Trong những năm 1965 - 1975, hai lực lượng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán có sự đóng góp tích cực trong đời sống xã hội. Về tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội, cả hai lực lượng có mức tăng trưởng khoảng 2 lần, trong đó, mậu dịch quốc doanh tăng 1,9 lần, hợp tác xã mua bán tăng 2,2 lần, nắm tới 75 - 80% tổng mức bán lẻ trong nước; trong khi thị trường tự do (lúc đó gọi là thị trường không có tổ chức) nắm khoảng 20 - 25% nhưng có mức tăng trưởng cao hơn so với 2 lực lượng của thương nghiệp quốc doanh (3,7 lần).
Cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng mang hàng đến cảng bán cho công nhân, tháng 01/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Thị trường tự do bao gồm chợ nông thôn, chợ khu vực thành thị, chợ chuyên bán các mặt hàng nông sản. Đầu vào của chợ nông thôn là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, nông thổ sản do người dân sản xuất, tăng gia thêm, sau khi đã làm nghĩa vụ với Nhà nước; và những mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, hàng xén do những người buôn ngồi, buôn chuyến đưa về. Chính quyền địa phương có nhiều biện pháp giúp đỡ chợ nông thôn (như: xây, lợp lại các quán chợ, mở thêm các chợ mới), nhờ đó thu được thuế, có thêm nguồn kinh phí cho địa phương.
Chợ khu vực thành thị thời kỳ 1965 - 1975 bao gồm những quầy hàng của mậu dịch quốc doanh, các tổ hợp tác và những người buôn bán “tự do”. Bên cạnh đó, còn có chợ “cóc”, chợ “xanh”, hay những người bán hàng rong...
Với chợ nông sản, lương thực, thực phẩm được lưu thông từ nông thôn ra thành thị nhờ các thương nhân. Những người buôn hàng chuyến đã tạo ra những luồng hàng ổn định theo mùa và theo tuyến để đưa nông sản về thành phố. Hà Nội có nhiều chợ bán buôn nông sản, một trong những chợ lớn nhất là chợ Bắc Qua. Ở đây, vừa có Ga đầu cầu Long Biên, vừa có Bến Nứa là những đầu mối giao thông của cả đường bộ, đường sắt và đường thủy để chuyên chở nông sản từ các nơi về Thủ đô. Chợ họp từ nửa đêm đến tảng sáng, không chỉ vì sợ máy bay Không quân Hoa Kỳ, mà chủ yếu là vì phải kịp đưa hàng về các chợ nhỏ từ sáng sớm2.
Đây cũng là thời kỳ mở rộng sử dụng tem phiếu, cung cấp hàng hóa theo giá bao cấp cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân mà nguyên nhân chủ yếu là do cung cầu mất cân đối, trong khi phải giữ giá cả ổn định, phải thực hiện nhiều chính sách đối với nhiều loại đối tượng phục vụ... Bản thân tem phiếu mang chức năng và giá trị của tiền tệ nên việc in, phát hành và quản lý chúng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc như đối với tiền giấy. Việc vận chuyển cũng đòi hỏi nghiêm ngặt giống như vận chuyển tiền.
Việc quản lý và cấp phát tem phiếu là một việc làm vô cùng phức tạp, đặc biệt tại thời điểm này hoàn toàn dùng phương pháp tính toán và thống kê thủ công, tốn nhiều giấy mực và nhân lực. Ngoài ra, hệ thống tem phiếu có rất nhiều chủng loại. Mỗi loại lại có nguyên tắc và chế độ cấp phát khác nhau, cho các đối tượng khác nhau. Có loại tem phiếu căn cứ theo mức lương, chức vụ, cấp bậc lao động; có loại căn cứ theo độ tuổi nhân khẩu, có loại chỉ giới hạn cho cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân thành thị, có loại lại mở rộng cho toàn thể nhân dân... Đối tượng hưởng theo mỗi loại tem phiếu đó cũng thường xuyên thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể năm 1965, số dân phi nông nghiệp chỉ là 3,105 triệu người và tổng số công nhân, viên chức là 971 nghìn người. Nhưng đến năm 1975, số dân phi nông nghiệp đã tăng lên 5,125 triệu người (tăng 65%) và công nhân, viên chức là 1,753 triệu người (tăng 80%)3.
Theo quy định, mỗi năm cấp tem phiếu một lần. Nhưng trong năm lại phát sinh những trường hợp sinh, tử, cưới xin, tăng tuổi, bệnh tật,... nên phải cấp phát và điều chỉnh liên tục.
Chính vì sự phức tạp đó, nên việc cấp phát và quản lý tem phiếu đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Bộ Nội thương, Bộ Lương thực, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan chủ quản đương sự, công an, công đoàn, có khi cả Hội Liên hiệp phụ nữ... Từ đó đã hình thành cả một hệ thống những người làm công việc quản lý và cấp phát tem phiếu từ cấp xã, huyện, tỉnh, thành phố lên tới Trung ương; từ các cơ quan, xí nghiệp, công trường, trường học lên các sở, bộ...
Hàng hóa do Nhà nước cung cấp thông qua mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán trong tổng số chi của gia đình công nhân, viên chức chiếm tỷ trọng rất cao, khoảng 70% trong suốt thời gian chiến tranh và hòa bình xen kẽ (1965 - 1975). Trong phân bố lao động xã hội của các ngành kinh tế, năm 1965, số lao động hoạt động trong ngành Thương nghiệp, cung ứng vật tư chiếm 2,3%, đến năm 1975 tăng lên 3,1%. Về chỉ số phát triển lao động thường xuyên khu vực nhà nước trong lĩnh vực thương nghiệp, lấy năm 1955 là 1 thì đến năm 1965 bằng 7,4 lần; năm 1971 bằng 7,8 lần; năm 1975 bằng 11,1 lần. Về vốn đầu tư xây dựng của Nhà nước ở khu vực thương nghiệp và cung ứng vật tư, lấy bình quân năm của giai đoạn khôi phục 1955 - 1957 là 1 thì đến giai đoạn 1961 - 1965 đạt 1,89 lần; giai đoạn 1966 - 1971 đạt 3,82 lần; giai đoạn 1972 - 1975 đạt 6,38 lần4.
Những số liệu trên cho thấy, xét theo tiêu chí nào thì trong giai đoạn 1965 - 1975, lực lượng thương nghiệp quốc doanh đều có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, tổng giá trị hàng hóa do thương nghiệp quốc doanh thu mua trong nước tăng trưởng mạnh ở tất cả các quãng thời gian hòa bình và chiến tranh luân phiên.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), các hợp tác xã nông nghiệp và các nông trường trên toàn miền Bắc đã được trang bị 15.163 máy phát điện, 9.784 máy kéo, 22.127 máy công tác. Năm 1966, hợp tác xã nông nghiệp được trang bị máy phát điện và máy công tác, chiếm 10,9% tổng số hợp tác xã nông nghiệp, năm 1967 chiếm 19,8% và năm 1969 là 29,9%. Trong xây dựng cơ bản phục vụ nông nghiệp, số lượng công trình thủy nông lớn được xây dựng trong những năm 1965 - 1968 đã tăng cao nhất so với các thời kỳ trước đó. Trong những năm 1965 - 1968 tăng 1,5 lần so với thời kỳ 1961 - 1964; tăng 9,6 lần so với thời kỳ 1958 - 1960; tăng 3,3 lần so với thời kỳ 1955 - 19575.
Đây là cơ sở để thương nghiệp phục vụ, cung ứng tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành kinh tế khác.
Nhờ đó, ở khắp nơi trên miền Bắc đã xuất hiện hàng nghìn hợp tác xã đạt và vượt 5 tấn thóc/ha đất gieo trồng hai vụ lúa - điều mà trước đó chỉ là ước mơ của người nông dân. Nếu năm 1964 mới có 5 huyện và một số hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha thì đến năm 1967 đã có 30 huyện với 2.551 hợp tác xã.
Sổ cung ứng xăng dầu
Dưới thời bao cấp, xăng dầu là mặt hàng được Nhà nước quản lý chặt chẽ và chỉ cấp theo định mức cho những đơn vị có nhu cầu sử dụng, không phân phối đại trà trên thị trường cho người dân.
Các đơn vị được cấp xăng dầu sẽ được Tổng Công ty Xăng dầu mỡ (nay là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) cấp một Sổ cung ứng xăng dầu. Nội dung sổ thể hiện rõ lượng nhiên liệu, loại nhiên liệu và thời điểm cung ứng. Sổ cung ứng này chỉ có giá trị trong một năm. Cuối năm, đơn vị được cấp sổ phải mang sổ cũ đến đơn vị cung ứng vật tư địa phương để đối chiếu và đổi sổ mới.
Kể từ tháng 01/1987, xăng dầu bắt đầu được bán lẻ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Lúc này nguồn cung nhiên liệu tại Việt Nam bắt đầu được cải thiện, Sổ cung ứng xăng dầu dần được loại bỏ.
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd.
Nhìn theo Chỉ số phát triển thống kê ở bảng trên, ta thấy rõ hơn sức mua phát triển vượt bậc đối với hàng công nghiệp.
Sau 1965, ngành Thương mại chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, ra sức thu mua nhằm nắm nguồn hàng để trang trải cho nhu cầu của sản xuất và đời sống, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh, trên cơ sở đó tăng nhanh khối lượng hàng hóa đưa ra tiền tuyến và cung ứng cho vùng mới giải phóng ở miền Nam. Về chỉ số khối lượng vận chuyển chi viện cho tiền tuyến những năm 1965 - 1971, lấy năm 1965 là 1 thì năm 1966 là 2,4; năm 1967 là 4,4; năm 1968 là 8,0; năm 1969 là 7,6; năm 1970 là 9,4; năm 1971 là 9,0. Trong hai năm 1973 - 1974, có khoảng 39,7 nghìn tấn vật chất được vận chuyển vào Nam, bằng 54% tổng khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong 16 năm trước đó. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, có 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải là từ hậu phương miền Bắc chuyển vào Nam.
Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh, tháng 4/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Tính cộng đồng trong đám cưới
Năm 1973, anh trai tôi, làm ở Viện Thiết kế máy Công nghiệp, cưới vợ. Đó là những năm tháng hòa bình đầu tiên sau những trận không kích ác liệt bằng B.52 trong 12 ngày đêm trên bầu trời miền Bắc, nên những chuyện như dựng nhà, đốt lò gạch mới hay làm đám cưới lúc đó vui lắm.
Là viên chức nhà nước nên cuộc sống vật chất của anh tôi khá dư dả. Lương 74 đồng, gấp hơn 2,7 so với mức lương thấp nhất của công nhân, viên chức hồi đó là 27 đồng 3 hào. Hằng tháng được mua theo giá bao cấp nhiều loại lương thực, thực phẩm thiết yếu như gạo 15 kg, thịt 1,5 kg, đường 1 kg; cao hơn tiêu chuẩn của nhân dân, mỗi tháng có 3 lạng thịt, 1 lạng đường. Ngoài ra còn có phiếu mua đậu phụ, trứng vịt, nước mắm, thậm chí là cá biển.
Khi cưới vợ, anh tôi được mua 2 tút thuốc lá, 4 bao chè, 4 kg bánh kẹo, 1 bộ chăn màn và giường chiếu (do hết giường nên được đổi sang tủ), 1 cái phích, 1 cái chậu và 1 cái mâm.
Tiêu chuẩn này là mơ ước của nhiều người dân. Nhưng để chuẩn bị cho đám cưới, anh tôi cũng phải gom tiêu chuẩn thuốc lá, thịt, đường của 14 anh em cùng phòng. Mẹ tôi ở quê bán thóc mua bột mì, trứng, đường để làm kẹo, bánh quy gai, bánh quy xốp, bánh vòng vừng...
Một điều may mắn là ông bà tôi có... 8 người con. Nên riêng các cô, chú nhà tôi đã huy động được “lực lượng” gạo, gà, vịt, chè, mứt sen... khá hùng hậu. Thậm chí, bác cả nhà tôi nghèo nhất cũng ủng hộ được 3 bao tải mùn cưa (các bạn đừng cười, thứ này hồi đó rất quý).
Hỗ trợ nhau trong các sự kiện dựng vợ, gả chồng, làm nhà thời đó là chuyện bình thường; như một câu nói phổ biến hồi đó: “Có ai lo hết được cho mình mọi thứ đâu!”.
Nguồn: Theo ký ức của một phóng viên Tạp chí Công Thương.
1. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tr.372.
2. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr165.
3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.169.
4. Xem Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd, tr.138, 142, 143.
5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.60-61.
2. Giữ vững mạch máu lưu thông Bắc - Nam
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, không quân Mỹ tập trung đánh phá các thành phố, thị xã, thị trấn, các cửa khẩu biên giới, các vùng đông dân, các cầu cống trên các tuyến đường bộ, đường sắt, bao vây, phong tỏa các cảng biển, uy hiếp tàu nước ngoài ra vào cảng Hải Phòng, nhằm làm cho lưu thông hàng hóa trong nội địa bị rối loạn để ngăn cản chi viện cho chiến trường miền Nam. Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán - đối tượng trực tiếp của không quân Mỹ, đã đối đầu thắng lợi, không ngừng lớn mạnh trong khói lửa chiến tranh. Rất nhiều cán bộ, nhân viên thương mại quốc doanh trưởng thành từ lò lửa chiến tranh ác liệt, như Anh hùng Lao động Lê Văn Phú, Tổ trưởng Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Hướng Lập, Vĩnh Linh; Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Chỉ, Chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán Thanh Ba, Vĩnh Phúc... Cũng trên mặt trận khốc liệt này, nhiều cán bộ, nhân viên thương mại quốc doanh đã anh dũng hy sinh.
Kỳ tích của Chi cục Vận tải Khu IV
Hòng cắt đứt sự chi viện về người, vũ khí, xăng dầu và hàng tiêu dùng của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, không quân Mỹ ra sức tăng cường bao vây, phong tỏa các cảng miền Bắc, uy hiếp tàu ra vào cảng Hải Phòng. Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa là các địa bàn chiến đấu cực kỳ ác liệt. Trước tình hình đó, một nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là phải giữ bằng được mạch máu lưu thông từ Bắc vào Nam. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, đầu năm 1965, Bộ trưởng Bộ Nội thương Nguyễn Thanh Bình đã ký Quyết định thành lập Chi cục Vận tải Khu IV, nhằm bảo đảm tiếp chuyển hàng nội thương vào phía Nam.
Với quân số 328 người thuộc 7 trạm: Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hoàng Mai, Vinh, Bắc Hà Tĩnh và Ba Đồn, một đội xe vận tải 32 đầu xe của Nga, Đức, Trung Quốc và một đội thuyền 27 chiếc, trong đó 12 thuyền nhỏ với các thủy thủ chủ yếu là nữ, hoạt động từ Hải Phòng, Hà Nội đến cầu Hiền Lương (Vĩnh Linh), Chi cục đã bám dọc quốc lộ 1A, 1B và đường 15 giáp Lào; còn đường thủy thì chạy dọc Vịnh Bắc Bộ và trên kênh đào nhà Lê. Liên tục hoạt động trong suốt 4 năm trong điều kiện chiến tranh ác liệt, bất kẻ bom rơi, đạn nổ, không kể ngày hay đêm, có hàng là nhận, có xe là giao, giao hàng trong đêm tối không đèn đóm. Có thể một người phải đảm đương nhiều việc, kể cả bốc vác hàng, khi cần thì tiếp đạn cho trận địa pháo và chở thương binh từ trận địa đi cấp cứu...
Kết quả, trong 4 năm (1965 - 1969), mặc dù hàng nội thương chỉ được xếp thứ bảy trong thứ tự vận chuyển hàng hóa của Nhà nước trong những năm chiến tranh, nhưng Chi cục đã nhận được 42.000 tấn hàng gồm vải sợi, hàng may mặc, hàng bách hóa, nông sản và hải sản; giao được 41.631 tấn hàng hóa cho các tỉnh: Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Để vận chuyển được những tấn hàng trên cho các tỉnh, các đồng chí cán bộ, nhân viên Chi cục đã phải thực hiện gần 4.000 tấn bốc xếp, gần 2.700 tấn chuyển tải. Trong quá trình vận chuyển, số lượng hàng hóa hao hụt do bom đạn địch phá là tương đối lớn. Đạt được những kết quả trên, Chi cục đã có 26 đồng chí hy sinh, có những đồng chí đã hy sinh ngay cạnh mâm pháo và vĩnh viễn nằm lại dưới đáy Biển Đông. Những thành công, thắng lợi của Chi cục Vận tải Khu IV đã được Bộ Nội thương thời kỳ đó ghi nhận và tặng bằng khen.
Nguồn: Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd.
Công tác quản lý kinh tế trong chiến tranh vẫn được chú trọng. Mặc dù kho tàng, cửa hàng, hàng hóa bị đánh phá, nhiều vùng kho bị đánh phá nhiều lần, những tài sản, hàng hóa được bảo vệ và bảo quản tốt. Số hàng hóa bị thiệt hại do địch gây ra chỉ bằng 1,6% tổng mức luân chuyển hàng hóa trong 4 năm (1965 - 1968).
Chiếc ôtô ray đầu tiên mang tên Độc Lập, do Nhà máy Xe lửa Gia Lâm (Hà Nội) nghiên cứu, thiết kế và chế tạo (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ngày 11/8/1969, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Bộ Vật tư; Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với ngành Vật tư trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đảm bảo đời sống sản xuất cho nhân dân. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn này, Bộ Vật tư cung ứng khoảng 1.500 xe vận tải các loại, có năm tới 7.000 xe (thời kỳ 1961 - 1964 chỉ cấp khoảng 100 xe/năm) cùng với hàng chục vạn tấn xăng dầu, hàng vạn tấn kim khí, hàng vạn tấn hóa chất, hàng vạn kilômét cáp các loại và hàng nghìn máy móc thiết bị... phục vụ sản xuất và chiến đấu1.
Vào những năm 1968 - 1972, không quân Mỹ đã đánh phá hầu hết các bến cảng, bến phà, cầu cống, kho tàng của ta, đồng thời thả thủy lôi phong tỏa cửa biển và nhiều tuyến đường sông. Trước tình hình đó, các bộ quản lý thuộc ngành Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với quân đội và ngành Giao thông vận tải mở ra nhiều cảng biển, bến phà và cầu mới, huy động mọi phương tiện từ đường sắt, đường thủy, đường sông, đường bộ,... để tiếp nhận hàng hóa đáp ứng nhu cầu hậu phương và tiền tuyến. Thậm chí, có nơi, có lúc phải dùng ba lô để cõng xăng dầu lên trận địa, dùng bao nilông bọc bao tải lương thực thả trôi trên biển để cung ứng cho tuyến lửa miền Trung. Một trong những trọng điểm đánh phá của Mỹ là kho tàng, nhất là kho xăng dầu. Ngay từ ngày 05/8/1964, Kho xăng dầu Bến Thủy đã là điểm đầu tiên trên miền Bắc bị bắn phá. Hầu hết các kho xăng dầu đều bị ném bom lại nhiều lần. Kho xăng dầu Thượng Lý (Hải Phòng) bị địch đánh phá 98 lần, bình quân mỗi cán bộ, công nhân viên ở đây phải hứng chịu 3 trận đánh phá với 10 quả bom Mỹ ném xuống. Để giảm tổn thất, việc phân tán và bảo vệ kho tàng hàng hóa hết sức quan trọng. Việc này đòi hỏi phải tốn rất nhiều công sức, tiền của và đây là một trong những chiến công nổi bật của toàn ngành.
Đoàn xe vượt Đèo Cả chở xăng dầu ra mặt trận (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Nhờ vậy, dù bị địch phong tỏa và bị đánh phá ác liệt, ngành Công Thương vẫn đảm bảo được xăng dầu, xe máy cho quốc phòng, an ninh, giao thông vận tải hoạt động. Ngành Xăng dầu (gồm cả quân đội) đã có một hệ thống đường ống dài 4.848 km đi từ Lạng Sơn, Bãi Cháy vào tới Bù Gia Mập (Tây Ninh). Hệ thống đường ống này đã đảm nhận cung cấp 70% khối lượng xăng dầu cho mặt trận. Để góp phần cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Tổng Công ty Xăng dầu đã huy động lập một đoàn xe gồm 147 chiếc để chở xăng dầu ra tiền tuyến2.
Có thể nói, cuộc đối đầu giữa bom đạn và ý chí ngày càng làm tăng thêm vòng luân chuyển con người, hàng hóa, xăng dầu, vũ khí... qua đại ngàn Trường Sơn, Tây Nguyên hùng vĩ cho đến ngày thống nhất đất nước.
“Coi vị trí sản xuất là vị trí chiến đấu”
Ở giai đoạn này, cơ sở xăng dầu trở thành trọng điểm đánh phá dữ dội nhất của không quân Mỹ. Kho Xăng dầu Đức Giang bị chúng điên cuồng đánh phá nhiều lần, đặc biệt là hai đợt bắn phá gây thiệt hại nghiêm trọng ngày 29/6/1966 và 16/4/1972. Bất chấp hiểm nguy, hàng trăm công nhân đã xông vào chiến đấu với giặc lửa, cứu từng phuy xăng.
Với Tổng kho Xăng dầu Thượng Lý, trong suốt 7 năm (1966 - 1972), đế quốc Mỹ đã đánh phá 98 trận với hơn 4.000 quả bom các loại, hàng chục trận B.52 hủy diệt.
Đây cũng là thời kỳ thử thách ác liệt nhất của Petrolimex. Với tinh thần “coi vị trí sản xuất là vị trí chiến đấu”, cán bộ, người lao động Petrolimex đã dũng cảm bám trụ, chiến đấu ngoan cường dưới mưa bom, bão đạn, bảo đảm liên tục mạch máu xăng dầu cho Tổ quốc.
Trong những trận chiến ác liệt đó, nhiều tấm gương dũng cảm, anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ như cố Tổng Giám đốc Phạm Văn Đạt, hy sinh ngay tại trụ sở số 1, Khâm Thiên, Hà Nội; Đội trưởng bảo vệ Trương Xuân Lộc, Đội phó bảo vệ Lê Xuân Ba (Kho Xăng dầu Đức Giang); anh Nguyễn Văn Mậu, công nhân Sở Dầu, Hải Phòng... Máu các anh đã đổ, nhưng huyết mạch xăng dầu vẫn thông suốt, liên tục từ đồng ruộng đến công trường, nông trường, nhà máy, vượt Trường Sơn khói lửa, tới chiến trường miền Nam ruột thịt.
Tổng kết thành tích đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 8 đơn vị thành viên của Petrolimex và danh hiệu Anh hùng Lao động cho đồng chí Lê Văn Thiêm - Chủ nhiệm Công ty Xăng dầu Nghệ - Tĩnh.
Nguồn: Petrolimex.com.vn.
Đúng 12 giờ 18 phút ngày 29/6/1966, ba tốp máy bay của không quân Hoa Kỳ đã thay nhau ném bom liên tiếp khu vực Hà Nội, Đức Giang và khiến cho Tổng kho Xăng dầu Đức Giang bốc cháy dữ dội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
1. Xem Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Sđd, tr.34.
2. Xem Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam 1946 - 2006, Sđd, tr.34.