3. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp chủ yếu
a) Điện lực
Điện lực là mục tiêu bị đánh phá ác liệt trong chiến tranh; hầu như 100% các nhà máy điện bị đánh phá, trong đó nhiều nhà máy bị đánh nhiều lần. Với khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, cán bộ, công nhân viên ngành Điện tập trung cao độ cho công tác khôi phục các nhà máy điện, đảm bảo đường điện luôn thông suốt phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống và đáp ứng các yêu cầu chiến đấu. Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, ta đã lập tức khôi phục các lò hơi số 4 Nhà máy Điện Việt Trì, lò hơi số 2 Nhà máy Điện Uông Bí, nồi hơi Nhà máy Điện Yên Phụ và 25 cụm lò hơi nhỏ khác, đồng thời phát triển các trạm diesel để cung cấp cho các cơ sở không được dùng điện lưới.
Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ, Điện lực cũng là ngành hoàn thành sớm nhất việc khôi phục 100% các nhà máy điện bị hư hỏng vào năm 1974, cải tạo và mở rộng một loạt các nhà máy điện quan trọng: Uông Bí đợt II và III, đưa công suất từ 48 MW lên 55 MW, Thái Nguyên: công suất 24 MW, Hà Bắc và Việt Trì: công suất 12 MW. Hoàn thành xây dựng các nhà máy điện lớn như Nhiệt điện Ninh Bình: 100 MW, Thủy điện Thác Bà: 108 MW; chuẩn bị cho xây dựng Nhà máy điện Phả Lại, mở rộng các trạm biến áp 110 kV Đông Anh, Hà Đông, An Lạc; khôi phục các trạm biến áp Mông Dương, Trình Xuyên và các đường dây 110 kV quan trọng Ninh Bình - Thanh Hóa, Phả Lại - Hải Hưng, đường dây 220 kV Thanh Hóa - Vinh; xây dựng thêm các trạm diesel ở Khu IV cũ, các trạm bù công suất ở các khu công nghiệp lớn và các trạm biến thế phục vụ nông nghiệp.
Số lượng các nhà máy điện đã tăng từ 40 cơ sở năm 1965 lên hơn 50 cơ sở năm 1975. Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng điện 1,34 tỉ kWh, gấp hơn 2 lần mức của năm 1965, trong đó tỷ lệ điện dành cho sản xuất nông nghiệp tăng từ 2% (năm 1960) lên 6,1% (năm 1965) và 14,8% (năm 1975).
b) Luyện kim
Ngành Luyện kim bị đánh phá ác liệt và thiệt hại nặng nề, đặc biệt là Luyện kim đen. Dự kiến sản xuất 20 vạn tấn thép vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1965 - 1970) đã không thực hiện được. Hầu hết các sản phẩm khác đều giảm sút mạnh: gang giảm từ 127,8 nghìn tấn (năm 1965) xuống còn 95,1 nghìn tấn (năm 1975), quặng cromit giảm từ 13,1 nghìn tấn xuống còn 10,4 nghìn tấn, thiếc thỏi giảm từ 436 tấn xuống còn 263 tấn, riêng thép, năm 1975 bắt đầu sản xuất được 36 nghìn tấn.
Tuy nhiên, trong chiến tranh, chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và luyện kim có trình độ, tiến hành khảo sát thăm dò được một trữ lượng trên 200 triệu tấn quặng sắt. Ngay khi chiến tranh vừa kết thúc vào năm 1975, khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên được khôi phục và cải tạo mở rộng với công suất 12 vạn tấn thép và 15 vạn tấn gang/năm, tiếp tục xây dựng Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, khôi phục và mở rộng các mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa): 2 vạn tấn, Nhà máy Luyện thiếc Tĩnh Túc: 550 nghìn tấn quặng, mỏ graphite (Yên Bái): 600 nghìn tấn.
c) Cơ khí
Đây cũng là ngành bị đánh phá nặng nề và giảm sút mạnh trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1968, khi đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, một số sản phẩm cơ khí quan trọng đã sụt giảm so với cùng kỳ năm 1967 và không hoàn thành kế hoạch như bơm nước, rơmoóc, lốp ôtô, động cơ điện, tầu kéo, phụ tùng ôtô; sản xuất dụng cụ đồ nghề, nông cụ. Năm 1970, đế quốc Mỹ đã ngừng ném bom, nhưng so với năm 1969, sản lượng của ngành vẫn bị giảm nhiều do phải ngừng sản xuất các mặt hàng ứ đọng để chuyển sang sản xuất phụ tùng và sửa chữa.
Trong những năm 1973 - 1975, ngành Cơ khí đã tiến hành sắp xếp theo nhóm sản phẩm, tập trung đảm bảo sửa chữa nhanh chóng các phương tiện giao thông vận tải, mở rộng mạng lưới các trạm trại cơ khí nông nghiệp, chế tạo các thiết bị cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm.
d) Khai thác than
Trong chiến tranh, sản lượng than khai thác bị giảm mạnh và chỉ cung cấp đủ cho các nhà máy điện: cho các ngành như rèn, đúc, nung vôi, nung gạch thiếu than nghiêm trọng... Cũng lấy mốc kết thúc cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, là quý I/1968, khai thác đạt 70% kế hoạch và bằng 71% so với cùng kỳ năm 1967. Lượng than dự trữ tại các cảng còn rất mỏng: cảng Tiên Kiên còn 11 nghìn tấn, cảng Hải Phòng chỉ còn 3,4 nghìn tấn.
Từ năm 1973, miền Bắc trở lại thời kỳ hòa bình, ta đã khôi phục lại Nhà máy Sàng than Hòn Gai: 1 triệu tấn; Nhà máy Sàng than Cửa Ông: 2 triệu tấn (tương đương 2/3 công suất cũ); khôi phục và cải tạo 3 mỏ than lộ thiên ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu tấn; xây dựng tiếp mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn; các mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn; mỏ than Hà Lầm, Hữu Nghị: 0,3 triệu tấn; mỏ than Phấn Mễ: 10 vạn tấn; khởi công mỏ than Cao Sơn: 2 triệu tấn, Nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển... Sản lượng ngành Than cũng nhanh chóng được khôi phục và có bước nhảy vọt: Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng 5,2 triệu tấn than, vượt 1 triệu tấn so với mức năm 1965; trong đó chủ yếu nhờ vào tăng sản lượng khai thác mỏ than Hòn Gai từ 2,3 triệu tấn (năm 1971) lên 4,1 triệu tấn (năm 1975).
đ) Hóa chất phân bón
Khôi phục, cải tạo và mở rộng các cơ sở quan trọng như Hóa chất Việt Trì: 4.500 tấn, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II từ 18 vạn tấn lên 30 vạn tấn, Cao su Sao Vàng: 5 vạn bộ lốp ôtô và 3 triệu lốp xe đạp... Xây dựng thêm nhiều nhà máy mới như Phân đạm Hà Bắc: công suất 6 vạn tấn, Phân lân nung chảy Ninh Bình: 10 vạn tấn, Ắc quy Vĩnh Phú: 6 vạn kWh, các cơ sở nhỏ đắp lốp xe thuộc Bộ Giao thông vận tải, thuộc Tổng cục Hóa chất và thuộc các địa phương. Chuẩn bị khởi công Nhà máy Phân lân nung chảy Thanh Hóa, công suất 2 vạn tấn...
e) Sản xuất hàng tiêu dùng
Sản xuất hàng tiêu dùng cũng không tránh khỏi có những thời gian sút giảm và căng thẳng về cung ứng hàng hóa tiêu dùng, như giấy viết, chiếu cói, đồ sành sứ thủy tinh, đường mật, nước mắm, cá muối... Sau khi buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại, ta đã nhanh chóng khôi phục và cải tạo các cơ sở quan trọng như Dệt 8-3 với công suất 40 triệu mét vải, Dệt Nam Định: 60 triệu mét vải, Tơ lụa Nam Định: 7 triệu mét lụa, Sứ Hải Dương: 2.250 tấn sản phẩm, Bóng đèn Rạng Đông: 7 triệu cái. Khởi công xây dựng Nhà máy Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú) do Trung Quốc giúp, Giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú) do Thuỵ Điển giúp, Dệt kim Thắng Lợi, May Xuất khẩu; thành lập các quốc doanh đánh cá và cảng cá Hạ Long, Cát Bà, Hải Phòng, Sông Gianh; xây dựng các nhà máy chè Nghĩa Lộ, Yên Bái, Trần Phú, Cửu Long, In nhãn hiệu Vĩnh Phú... Các địa phương cũng tự xây dựng nhiều cơ sở nhỏ chế biến chè, bột mì, ngô, khoai, sắn, đậu phụ, nước mắm, rau quả...
3. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp chủ yếu
a) Điện lực
Điện lực là mục tiêu bị đánh phá ác liệt trong chiến tranh; hầu như 100% các nhà máy điện bị đánh phá, trong đó nhiều nhà máy bị đánh nhiều lần. Với khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, cán bộ, công nhân viên ngành Điện tập trung cao độ cho công tác khôi phục các nhà máy điện, đảm bảo đường điện luôn thông suốt phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống và đáp ứng các yêu cầu chiến đấu. Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, ta đã lập tức khôi phục các lò hơi số 4 Nhà máy Điện Việt Trì, lò hơi số 2 Nhà máy Điện Uông Bí, nồi hơi Nhà máy Điện Yên Phụ và 25 cụm lò hơi nhỏ khác, đồng thời phát triển các trạm diesel để cung cấp cho các cơ sở không được dùng điện lưới.
Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ, Điện lực cũng là ngành hoàn thành sớm nhất việc khôi phục 100% các nhà máy điện bị hư hỏng vào năm 1974, cải tạo và mở rộng một loạt các nhà máy điện quan trọng: Uông Bí đợt II và III, đưa công suất từ 48 MW lên 55 MW, Thái Nguyên: công suất 24 MW, Hà Bắc và Việt Trì: công suất 12 MW. Hoàn thành xây dựng các nhà máy điện lớn như Nhiệt điện Ninh Bình: 100 MW, Thủy điện Thác Bà: 108 MW; chuẩn bị cho xây dựng Nhà máy điện Phả Lại, mở rộng các trạm biến áp 110 kV Đông Anh, Hà Đông, An Lạc; khôi phục các trạm biến áp Mông Dương, Trình Xuyên và các đường dây 110 kV quan trọng Ninh Bình - Thanh Hóa, Phả Lại - Hải Hưng, đường dây 220 kV Thanh Hóa - Vinh; xây dựng thêm các trạm diesel ở Khu IV cũ, các trạm bù công suất ở các khu công nghiệp lớn và các trạm biến thế phục vụ nông nghiệp.
Số lượng các nhà máy điện đã tăng từ 40 cơ sở năm 1965 lên hơn 50 cơ sở năm 1975. Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng điện 1,34 tỉ kWh, gấp hơn 2 lần mức của năm 1965, trong đó tỷ lệ điện dành cho sản xuất nông nghiệp tăng từ 2% (năm 1960) lên 6,1% (năm 1965) và 14,8% (năm 1975).
b) Luyện kim
Ngành Luyện kim bị đánh phá ác liệt và thiệt hại nặng nề, đặc biệt là Luyện kim đen. Dự kiến sản xuất 20 vạn tấn thép vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1965 - 1970) đã không thực hiện được. Hầu hết các sản phẩm khác đều giảm sút mạnh: gang giảm từ 127,8 nghìn tấn (năm 1965) xuống còn 95,1 nghìn tấn (năm 1975), quặng cromit giảm từ 13,1 nghìn tấn xuống còn 10,4 nghìn tấn, thiếc thỏi giảm từ 436 tấn xuống còn 263 tấn, riêng thép, năm 1975 bắt đầu sản xuất được 36 nghìn tấn.
Tuy nhiên, trong chiến tranh, chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và luyện kim có trình độ, tiến hành khảo sát thăm dò được một trữ lượng trên 200 triệu tấn quặng sắt. Ngay khi chiến tranh vừa kết thúc vào năm 1975, khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên được khôi phục và cải tạo mở rộng với công suất 12 vạn tấn thép và 15 vạn tấn gang/năm, tiếp tục xây dựng Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, khôi phục và mở rộng các mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa): 2 vạn tấn, Nhà máy Luyện thiếc Tĩnh Túc: 550 nghìn tấn quặng, mỏ graphite (Yên Bái): 600 nghìn tấn.
c) Cơ khí
Đây cũng là ngành bị đánh phá nặng nề và giảm sút mạnh trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1968, khi đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, một số sản phẩm cơ khí quan trọng đã sụt giảm so với cùng kỳ năm 1967 và không hoàn thành kế hoạch như bơm nước, rơmoóc, lốp ôtô, động cơ điện, tầu kéo, phụ tùng ôtô; sản xuất dụng cụ đồ nghề, nông cụ. Năm 1970, đế quốc Mỹ đã ngừng ném bom, nhưng so với năm 1969, sản lượng của ngành vẫn bị giảm nhiều do phải ngừng sản xuất các mặt hàng ứ đọng để chuyển sang sản xuất phụ tùng và sửa chữa.
Trong những năm 1973 - 1975, ngành Cơ khí đã tiến hành sắp xếp theo nhóm sản phẩm, tập trung đảm bảo sửa chữa nhanh chóng các phương tiện giao thông vận tải, mở rộng mạng lưới các trạm trại cơ khí nông nghiệp, chế tạo các thiết bị cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm.
d) Khai thác than
Trong chiến tranh, sản lượng than khai thác bị giảm mạnh và chỉ cung cấp đủ cho các nhà máy điện: cho các ngành như rèn, đúc, nung vôi, nung gạch thiếu than nghiêm trọng... Cũng lấy mốc kết thúc cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, là quý I/1968, khai thác đạt 70% kế hoạch và bằng 71% so với cùng kỳ năm 1967. Lượng than dự trữ tại các cảng còn rất mỏng: cảng Tiên Kiên còn 11 nghìn tấn, cảng Hải Phòng chỉ còn 3,4 nghìn tấn.
Từ năm 1973, miền Bắc trở lại thời kỳ hòa bình, ta đã khôi phục lại Nhà máy Sàng than Hòn Gai: 1 triệu tấn; Nhà máy Sàng than Cửa Ông: 2 triệu tấn (tương đương 2/3 công suất cũ); khôi phục và cải tạo 3 mỏ than lộ thiên ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu tấn; xây dựng tiếp mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn; các mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn; mỏ than Hà Lầm, Hữu Nghị: 0,3 triệu tấn; mỏ than Phấn Mễ: 10 vạn tấn; khởi công mỏ than Cao Sơn: 2 triệu tấn, Nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển... Sản lượng ngành Than cũng nhanh chóng được khôi phục và có bước nhảy vọt: Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng 5,2 triệu tấn than, vượt 1 triệu tấn so với mức năm 1965; trong đó chủ yếu nhờ vào tăng sản lượng khai thác mỏ than Hòn Gai từ 2,3 triệu tấn (năm 1971) lên 4,1 triệu tấn (năm 1975).
đ) Hóa chất phân bón
Khôi phục, cải tạo và mở rộng các cơ sở quan trọng như Hóa chất Việt Trì: 4.500 tấn, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II từ 18 vạn tấn lên 30 vạn tấn, Cao su Sao Vàng: 5 vạn bộ lốp ôtô và 3 triệu lốp xe đạp... Xây dựng thêm nhiều nhà máy mới như Phân đạm Hà Bắc: công suất 6 vạn tấn, Phân lân nung chảy Ninh Bình: 10 vạn tấn, Ắc quy Vĩnh Phú: 6 vạn kWh, các cơ sở nhỏ đắp lốp xe thuộc Bộ Giao thông vận tải, thuộc Tổng cục Hóa chất và thuộc các địa phương. Chuẩn bị khởi công Nhà máy Phân lân nung chảy Thanh Hóa, công suất 2 vạn tấn...
e) Sản xuất hàng tiêu dùng
Sản xuất hàng tiêu dùng cũng không tránh khỏi có những thời gian sút giảm và căng thẳng về cung ứng hàng hóa tiêu dùng, như giấy viết, chiếu cói, đồ sành sứ thủy tinh, đường mật, nước mắm, cá muối... Sau khi buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại, ta đã nhanh chóng khôi phục và cải tạo các cơ sở quan trọng như Dệt 8-3 với công suất 40 triệu mét vải, Dệt Nam Định: 60 triệu mét vải, Tơ lụa Nam Định: 7 triệu mét lụa, Sứ Hải Dương: 2.250 tấn sản phẩm, Bóng đèn Rạng Đông: 7 triệu cái. Khởi công xây dựng Nhà máy Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú) do Trung Quốc giúp, Giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú) do Thuỵ Điển giúp, Dệt kim Thắng Lợi, May Xuất khẩu; thành lập các quốc doanh đánh cá và cảng cá Hạ Long, Cát Bà, Hải Phòng, Sông Gianh; xây dựng các nhà máy chè Nghĩa Lộ, Yên Bái, Trần Phú, Cửu Long, In nhãn hiệu Vĩnh Phú... Các địa phương cũng tự xây dựng nhiều cơ sở nhỏ chế biến chè, bột mì, ngô, khoai, sắn, đậu phụ, nước mắm, rau quả...
2. Phát triển công nghiệp địa phương
Ngày 07/7/1965, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 123-NQ/TW, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình và việc phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn ở những bộ phận, những cấp cần thiết; nhưng phương hướng chung vẫn là chú trọng kiện toàn địa phương và các cơ sở sản xuất”1.
Tại Hội nghị về công nghiệp địa phương toàn miền Bắc tháng 11/1965, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị đánh giá: Sự phát triển công nghiệp địa phương thực sự là một bước mới trong sự phát triển công nghiệp nước ta.
Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12/1965) cũng nhận định: “Ra sức phát triển công nghiệp địa phương trong lúc này cũng là rất phù hợp với yêu cầu lâu dài về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, vì kinh tế địa phương phát triển sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi, tạo ra thị trường vững chắc cho công nghiệp trung ương, đặc biệt cho công nghiệp nặng phát triển”2. Báo cáo nêu rõ nhiệm vụ kinh tế hai năm 1966 - 1967, như sau: “Ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản lý,... nâng cao mức tự cung tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu, vật liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và bảo đảm đời sống nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng.
Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các bộ quản lý,... tận dụng công suất của các xí nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, về các nguyên liệu, vật liệu và hàng tiêu dùng mà trung ương phải phụ trách, tập trung sức viện trợ cho việc xây dựng và phát triển kinh tế địa phương”3.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, ngành Công Thương triển khai nhiệm vụ bảo vệ sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền công nghiệp đất nước theo hướng:
- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, giữa sản xuất công nghiệp với sẵn sàng chiến đấu.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương.
- Xây dựng cơ sở nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp địa phương.
- Đẩy mạnh trang bị kỹ thuật cho công nghiệp địa phương.
- Chú trọng bổ sung và tích cực đào tạo cán bộ, thợ lành nghề cho công nghiệp địa phương.
Các bộ quản lý ngành Công Thương dành một nguồn lực quan trọng để hỗ trợ công nghiệp địa phương. Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Cơ khí và Luyện kim, Bộ Điện và Than chú trọng bảo đảm nguồn điện, mở rộng và nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất cơ khí, tiến hành xây dựng điểm cơ khí huyện và các điểm cơ khí sửa chữa xã, kết hợp với xây các trạm phát điện diesel, trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước và khai thác than thủ công; tập trung đầu tư cho sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, các xưởng công nghiệp nhẹ về xẻ gỗ, đồ mộc, thủy tinh, đường mật, bánh kẹo; một số ngành chế tạo nông cụ cải tiến, máy bơm nước... Bên cạnh đó, hướng dẫn về kỹ thuật, đào tạo và cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản lý cho công nghiệp địa phương.
Bộ Nội thương, Bộ Vật tư đẩy mạnh đặt hàng gia công và thu mua hàng công nghiệp địa phương, đặc biệt những mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống và chiến đấu; cung cấp hoặc hỗ trợ địa phương tự giải quyết phần lớn nhu cầu về tư liệu sản xuất, nhất là trang bị máy móc nhỏ, máy nông cụ, xăng dầu, phân bón...
Bộ Ngoại thương lập kế hoạch giảm nhập thiết bị toàn bộ để tăng nhập thiết bị lẻ trang bị cho công nghiệp địa phương; nghiên cứu các công nghệ thích hợp với trình độ của công nghiệp địa phương, để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của địa phương, gồm thủ công nghiệp, hàng mỹ nghệ, hàng nông sản chế biến, cây công nghiệp; duy trì hàng xuất khẩu có truyền thống vào thị trường các nước tư bản để tạo ngoại tệ cho nhập khẩu thiết bị lẻ như phương tiện vận tải, máy cơ khí nhỏ, các thiết bị cho công nghiệp địa phương mà trong nước chưa sản xuất được.
Xã viên Hợp tác xã Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội) tích cực tăng gia sản xuất, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Với sự giúp đỡ của công nghiệp và thương nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương đã phát huy được thế mạnh của mình, phục vụ trước hết cho ba mục tiêu trong nông nghiệp lúc đó (mỗi lao động phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 2 đầu lợn và 1 ha gieo trồng), đặc biệt, tập trung vào các khâu yếu là phân bón, thức ăn gia súc, nông cụ thường và cải tiến; riêng về sản xuất hàng hóa tiêu dùng, các địa phương đều có kế hoạch phấn đấu tự giải quyết 40 - 50% nhu cầu tại chỗ.
Vốn đầu tư vào công nghiệp địa phương trong ba năm 1965 - 1967 tăng gấp 33 lần 3 năm trước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ngay tại các tỉnh bị đánh phá ác liệt nhất như các tỉnh thuộc Khu IV cũ, mỗi tỉnh cũng xây dựng thêm hàng chục xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Nếu năm 1965, toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương, 927 xí nghiệp địa phương; đến năm 1969 toàn miền Bắc có 1.352 xí nghiệp, trong đó có 277 xí nghiệp trung ương, 1075 xí nghiệp địa phương4. Như vậy, trong cùng thời gian, xí nghiệp trung ương tăng 72 cơ sở, công nghiệp địa phương tăng 148 cơ sở.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản công nghiệp địa phương tăng nhanh chóng, tăng từ 8,1 triệu đồng năm 1960 lên 40,3 triệu đồng năm 1965 và 150,5 triệu đồng năm 1975; chiếm tỷ trọng trong cơ cấu vốn đầu tư công nghiệp tương ứng là 3,2%, 6,7% và 20%.
Nhờ vậy, trong bối cảnh các cơ sở thuộc ngành công nghiệp trung ương như điện, than, cơ khí, luyện kim, vải vóc... là trọng điểm bắn phá trong chiến tranh phá hoại có sản lượng giảm sút, thì những sản phẩm điển hình của công nghiệp địa phương tăng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1970, máy phát diesel từ 1.113 cái tăng lên 1.170 cái; động cơ điện từ 5.712 cái tăng lên 10.206 cái; máy bơm thủy lợi từ 1.915 cái tăng lên 2.476 cái; cày, bừa cải tiến từ 214 nghìn cái tăng lên 366 nghìn cái; xe cải tiến từ 59.580 cái tăng lên 90.570 cái; mai, cuốc xẻng từ 1.250 nghìn cái tăng lên 1.998 nghìn cái; máy tuốt lúa từ 1.930 cái tăng lên 3.530 cái; máy xay xát gạo từ 1.150 cái tăng lên 2.480 cái; máy nghiền thức ăn gia súc từ 200 cái tăng lên 1.150 cái; phân bón hóa học từ 144 nghìn tấn tăng lên 182 nghìn tấn; thuốc trừ sâu từ 3.676 tấn tăng lên 7.314 tấn; vôi bón ruộng từ 580 nghìn tấn tăng lên 611 nghìn tấn; chiếu cói từ 2.638 nghìn đôi tăng lên 4.158 nghìn đôi; đồ thủy tinh từ 9.531 tấn tăng lên 12.512 tấn; đồ sứ dân dụng từ 53,4 triệu cái tăng lên 60,2 triệu cái; vải màn từ 25,42 triệu mét tăng lên 50,61 triệu mét; nước chấm từ 4,24 triệu lít tăng lên 22,36 triệu lít; mì chính từ 21 tấn tăng lên 67 tấn...
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương cũng tăng nhanh chóng. Chỉ số giá trị năm 1960 là 100%, thì năm 1965 bằng 148%, năm 1975 là 287%.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.516-517.
4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.255.