II. Những chủ trương và biện pháp khôi phục, phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại (19/8/1945 - 19/12/1946)
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)II. Những chủ trương và biện pháp khôi phục, phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại (19/8/1945 - 19/12/1946)
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)3. Hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương
a) Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước ngày 19/12/1946
Đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải sớm đưa bộ máy kinh tế còn đang hết sức rệu rã vào hoạt động trở lại, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt được, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay) để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và cử ông Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ trưởng.
Bộ máy quản lý của Bộ Kinh tế Quốc gia gồm 1 văn phòng, 7 phòng sự vụ, 4 nha và sở thống kê1. Cụ thể:
- Văn phòng Bộ: Giúp việc cho Bộ trưởng trong việc tổ chức các hoạt động chung của Bộ.
- Phòng Công văn và Viên chức (Phòng Nhất): Nhận và phát các công văn; trình ký, lưu trữ công văn; thực hiện công tác văn phòng, kế toán, nhân sự, ngân sách trong Bộ và các công tác tố tụng về Bộ.
- Phòng Cổ động và Pháp chế (Phòng Nhì): Cổ động, thông cáo, thu thập tài liệu, khảo cứu, liên lạc với các cơ quan, xây dựng các đạo luật về kinh tế.
- Phòng Kinh tế tập san (Phòng Ba): Xuất bản ấn phẩm Việt Nam Kinh tế Tập san.
- Phòng Nông mục Thuỷ lâm (Phòng Tư): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Nông mục Thủy lâm.
- Phòng Kỹ nghệ (Phòng Năm): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kỹ nghệ.
- Phòng Thương vụ (Phòng Sáu): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Thương vụ.
- Phòng Kinh tế Tín dụng (Phòng Bảy): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kinh tế Tín dụng.
- Nha Nông mục Thủy lâm: Đảm nhiệm các việc hành chính và chuyên môn về canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, ngư nghiệp, săn bắn; lập, thi hành và kiểm soát những chương trình dài hạn (3 năm, 5 năm...) và thường niên về các lĩnh vực thuộc Nha quản lý; nghiên cứu và thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất và chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.
- Nha Kỹ nghệ: Đảm nhiệm các việc hành chính và chuyên môn về các ngành kỹ nghệ (khoáng chất, chế biến, hóa chất...) và các lĩnh vực tiểu công nghiệp; lập, thi hành và kiểm soát những chương trình dài hạn và thường niên; nghiên cứu và thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất và chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.
- Nha Thương vụ: Đảm nhiệm các việc hành chính và chuyên môn về nội thương và ngoại thương; quản lý các quan hệ kinh tế với nước ngoài, xuất, nhập khẩu; nghiên cứu các chính sách ngoại thương, chế độ thuế quan; liên lạc với Sở Hối đoái và Bộ Tài chính.
- Nha Kinh tế Tín dụng: Đảm nhiệm các việc hành chính và chuyên môn về tín dụng phục vụ phát triển kinh tế trong nước; điều hành Quỹ Kinh tế Tín dụng và các cơ quan thuộc phạm vi tín dụng dành cho phát triển kinh tế (Kinh tế Ngân hàng, Nông phố Ngân hàng...); hỗ trợ tín dụng cho việc lập các công ty; chống nạn cho vay nặng lãi.
- Sở Thống kê: Đảm nhiệm việc thu thập các tài liệu, tính toán và trình bày số liệu thống kê, xuất bản ấn phẩm Thống kê bạ, Thống kê nguyệt san.
Công tác quản lý nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế Quốc gia trong giai đoạn này tập trung vào mục tiêu cao nhất là cứu đói cho nhân dân thông qua hỗ trợ khôi phục sản xuất nông nghiệp và khơi thông dòng chảy lương thực giữa các vùng, miền trên cả nước; tiếp đến là thực hiện mục tiêu khuyến khích giới thương nhân khôi phục sản xuất công nghiệp và hoạt động giao thương hàng hóa, từng bước chấn hưng nền kinh tế đất nước.
Sau ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ông Nguyễn Tường Long được cử giữ chức vụ Bộ trưởng. Đồng thời, nhằm tập trung các nguồn lực để thực hiện công cuộc tái thiết nền kinh tế đất nước, Bộ Quốc dân Kinh tế tiếp quản thêm các nha kinh tế: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; các phòng thương mại, các sở ngũ cốc, các cơ quan tiếp tế mọi ngành2.
Đến ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Chu Bá Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của Bộ Quốc dân Kinh tế được hoàn thiện, mở rộng thông qua việc sắp xếp lại và tổ chức thêm một số đơn vị3, trong đó:
- Nha Kỹ nghệ đổi tên thành Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ; đảm nhiệm thêm việc lập bản đồ địa chất, quản lý hoạt động thăm dò, khai thác, nhượng quyền khai thác các mỏ khoáng sản.
- Nha Tiếp tế thành lập mới dựa trên việc tổ chức lại các cơ quan tiếp tế trước đây. Nha Tiếp tế phụ trách phân phối nguyên vật liệu, hàng hóa cho hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp, cũng như cho tiêu dùng của người dân.
- Ban Thanh tra được thành lập mới nhằm kiểm tra các đơn vị trong việc tuân thủ, thi hành chủ trương, chính sách của Bộ.
- Ban Cố vấn Kinh tế được thành lập mới với nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu các chính sách kinh tế cho Bộ và Chính phủ.
- Nha Nông mục Thủy lâm giải thể; Sở Thống kê đổi tên thành Nha Thống kê Việt Nam.
Ông Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia
Ông Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia (8/1945 - 01/1946) sinh tại thị xã Hưng Yên trong một gia đình Công giáo. Năm 1937, ông tốt nghiệp Khoa Luật học và Chính trị, Trường Đại học Pari (Pháp). Sau khi về nước, ông được chính quyền thuộc địa cử giữ chức Giám đốc Kinh tế kiêm Thanh tra Lao động xứ Bắc Kỳ vào năm 1943.
Với cương vị này, ông đã nỗ lực đảm bảo việc cung ứng lương thực và cùng với những người bạn như nhà tư sản dân tộc Nguyễn Sơn Hà mở những điểm phát chẩn lương thực, giúp hàng nghìn người thoát khỏi nạn đói. Mặt trận Việt Minh biết rõ điều này, cho nên dù biết ông Nguyễn Mạnh Hà có quốc tịch Pháp, vẫn mời ông tham gia Chính phủ.
Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946), ông Nguyễn Mạnh Hà đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I đơn vị tỉnh Hưng Yên. Ông cũng là thành viên trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang đàm phán với Pháp tại Hội nghị Fontainebleau vào tháng 7/1946.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông Nguyễn Mạnh Hà bị kẹt lại Hà Nội và bất hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.
Ông bị trục xuất về Pháp vào năm 1951 và sống tại đây cho đến cuối đời.
b) Sau ngày 19/12/1946 đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), nền kinh tế Việt Nam chính thức chuyển sang nền kinh tế vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với phương châm “tự cấp, tự túc về mọi mặt”.
Đối với ta, hậu phương là các vùng rừng núi, vùng Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến, còn tiền tuyến là các vùng đồng bằng giáp ranh, thành phố. Đối với thực dân Pháp, hậu phương là các khu đô thị, khu công nghiệp quan trọng và vùng đồng bằng lớn, tiền tuyến là các vùng nông thôn.
Hoạt động giữa ta và quân Pháp trên các chiến trường đã tạo nên hình thái giằng co “cài răng lược”, hình thành nên hai vùng chủ yếu: vùng tự do là nơi hoàn toàn do ta quản lý kiểm soát và vùng bị địch tạm chiếm là nơi quân đội Pháp tạm thời kiểm soát hoàn toàn, xen kẽ phức tạp. Trước năm 1950, nhiều vùng tự do nằm hoàn toàn trong vòng vây của địch.
Điều này khiến các hoạt động sản xuất, giao thương hàng hóa chịu tác động mạnh, đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn mới đối với Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng trong hoạt động quản lý kinh tế.
Công tác quản lý nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế xuyên suốt trong cuộc kháng chiến là tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chính, gồm: đảm bảo đời sống tối thiểu của các tầng lớp nhân dân; đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, đặc biệt là về vật lực cho lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh; và bước đầu xây dựng một số nhân tố của nền kinh tế dân chủ mới.
Việc tuyển chọn người cho bộ máy thực hiện theo nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kể quá khứ, thành phần giai cấp và tôn giáo, nếu có năng lực và có tinh thần yêu nước, toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc và nhân dân đều được trọng dụng. Tháng 3/1947, luật sư Phan Anh được Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế và đảm nhiệm chức vụ này xuyên suốt cuộc kháng chiến.
Khi cuộc kháng chiến mới bùng nổ, bộ máy của Bộ Kinh tế được sắp xếp lại theo hướng linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc kháng chiến. Cụ thể, các đơn vị đầu mối của Bộ được rút gọn xuống, chỉ còn: Văn phòng, các phòng sự vụ, Ban Thanh tra, Ban Cố vấn Kinh tế, Nha Thương vụ, Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế4. Đồng thời, thiết lập các sở kinh tế đặt tại các địa phương để giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất và thương mại trong bối cảnh các địa phương thường xuyên bị chia cắt với Trung ương và mỗi địa phương có hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế khác nhau.
Tổ chức bộ máy của Bộ Kinh tế thường xuyên được kiện toàn, sắp xếp phù hợp nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý mới phát sinh gắn liền với các bước phát triển của công cuộc kháng chiến. Một số thay đổi quan trọng trong cơ cấu bộ máy của Bộ Kinh tế giai đoạn này gồm:
- Ngày 03/02/1947, Nha Tín dụng sản xuất được thành lập theo Sắc lệnh số 14/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Tín dụng sản xuất chịu trách nhiệm quản lý, điều phối các nguồn tài chính để phát triển kinh tế trong nước, cung cấp các khoản hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi cho thương nhân mở rộng kinh doanh.
- Ngày 16/02/1947, Hội đồng sản xuất kỹ nghệ được thành lập theo Sắc lệnh số 23/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội đồng sản xuất kỹ nghệ có nhiệm vụ nghiên cứu chương trình, kế hoạch sản xuất kỹ nghệ và kiểm soát việc thi hành những chương trình, kế hoạch ấy.
- Ngày 16/3/1947, Ngoại thương Cục được thành lập theo Sắc lệnh số 29/B-SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoại thương Cục chịu trách nhiệm quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, kiểm soát các loại hàng hóa được phép xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ngày 29/02/1948, Cục Tiếp tế vận tải được thành lập, thay thế cho Nha Tiếp tế theo Sắc lệnh số 140/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 28/5/1948, Nha Thống kê được tái lập theo Sắc lệnh số 190/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Thống kê có nhiệm vụ lưu trữ số liệu về tất cả các lĩnh vực do Bộ Kinh tế quản lý. Đến ngày 25/4/1949, Nha Thống kê được chuyển sang Chủ tịch Phủ theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 25/4/1949 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 21/12/1949, Nha Thương vụ được đổi tên thành Nha Thương mại; Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ được đổi tên thành Nha Kỹ nghệ theo Sắc lệnh số 143/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 17/11/1950, Sở Nội thương được thành lập, thay thế cho Cục Tiếp tế vận tải theo Sắc lệnh số 168/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Nội thương chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động kinh doanh, thương mại trong nước và đấu tranh kinh tế với địch.
- Ngày 14/5/1951, Sở Mậu dịch được thành lập, thay thế cho Sở Nội thương và Ngoại thương Cục theo Sắc lệnh số 22/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Mậu dịch có nhiệm vụ tổ chức, việc buôn bán trong nước, việc buôn bán trao đổi với nước ngoài và việc đấu tranh mậu dịch với địch.
Các cơ quan của Bộ Kinh tế được bố trí tập trung tại tỉnh Tuyên Quang, thuộc Liên khu Việt Bắc trong suốt cuộc kháng chiến. Cụ thể, từ năm 1947 đến năm 1950, các cơ quan được đặt tại xã Kim Quan, huyện Yên Sơn, từ năm 1950 đến năm 1952 chuyển đến xã Hùng Mỹ, huyện Chiêm Hóa. Sau đó chuyển đến xã Bình Yên, huyện Sơn Dương từ năm 1952 đến năm 1953 và xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương từ năm 1953 đến năm 1954.
Sự thay đổi tên gọi của Bộ Công Thương giai đoạn 1945 - 1954
- Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Ông Nguyễn Mạnh Hà đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.
- Ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn Tường Long đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.
- Ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Chu Bá Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.
- Ngày 03/11/1946, Bộ Kinh tế nằm trong Chính phủ mới (thay cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thành phần do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, thông qua ngày 03/11/1946 và được bổ sung cho đến năm 1955). Ông Ngô Tấn Nhơn đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. Ông Phan Anh đảm nhiệm chức vụ này từ tháng 3/1947.
- Ngày 14/5/1951, Bộ Kinh tế được đổi tên thành Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 21/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phan Anh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng.
Kiến quốc cần có nhân tài
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “kiến quốc cần có nhân tài”. Người đã viết hai bài “Nhân tài và Kiến quốc”, “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc để tìm người có năng lực và mong muốn tham gia xây dựng, kiến thiết Tổ quốc. Do đó, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số trí thức, nhân sĩ trong chính quyền cũ ra giữ trọng trách một số bộ trong Chính phủ; trong đó, luật sư Phan Anh được mời làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế vào tháng 3/1947.
Trước đó, vào tháng 4/1945, uy tín đạo đức và chuyên môn cao của luật sư Phan Anh đã khiến Lệ thần Trần Trọng Kim mời ông làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ Đế quốc Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong mọi hoạt động của mình, thái độ nhập thế của luật sư Phan Anh luôn chỉ thể hiện ham muốn phụng sự dân tộc và đất nước. Chính vì thế nên sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, luật sư Phan Anh đã rất nhẹ nhàng từ chức cùng nội các Trần Trọng Kim và rất vinh dự nhận nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho, đó là thành lập và giữ chức Chủ tịch “Hội đồng Kiến thiết Quốc gia” tập hợp hầu hết các trí thức tiến bộ ở Hà Nội thời ấy.
1. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.35.
2. Sắc lệnh số 12/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Sắc lệnh số 61/SL ngày 06/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Sắc lệnh số 220/SL ngày 26/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.