3. Hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương

a) Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước ngày 19/12/1946

Đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải sớm đưa bộ máy kinh tế còn đang hết sức rệu vào hoạt động trở lại, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt được, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay) để thực hiện chức năng quản nhà nước về kinh tế cử ông Nguyễn Mạnh giữ chức Bộ trưởng.

Bộ máy quản của Bộ Kinh tế Quốc gia gồm 1 văn phòng, 7 phòng sự vụ, 4 nha sở thống 1. Cụ thể:

- Văn phòng Bộ: Giúp việc cho Bộ trưởng trong việc tổ chức các hoạt động chung của Bộ.

- Phòng Công văn Viên chức (Phòng Nhất): Nhận phát các công văn; trình ký, lưu trữ công văn; thực hiện công tác văn phòng, kế toán, nhân sự, ngân sách trong Bộ các công tác tố tụng về Bộ.

- Phòng Cổ động Pháp chế (Phòng Nhì): Cổ động, thông cáo, thu thập tài liệu, khảo cứu, liên lạc với các quan, xây dựng các đạo luật về kinh tế.

- Phòng Kinh tế tập san (Phòng Ba): Xuất bản ấn phẩm Việt Nam Kinh tế Tập san.

- Phòng Nông mục Thuỷ lâm (Phòng Tư): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Nông mục Thủy lâm.

- Phòng Kỹ nghệ (Phòng Năm): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kỹ nghệ.

- Phòng Thương vụ (Phòng Sáu): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Thương vụ.

- Phòng Kinh tế Tín dụng (Phòng Bảy): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kinh tế Tín dụng.

- Nha Nông mục Thủy lâm: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, ngư nghiệp, săn bắn; lập, thi hành kiểm soát những chương trình dài hạn (3 năm, 5 năm...) thường niên về các lĩnh vực thuộc Nha quản lý; nghiên cứu thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.

- Nha Kỹ nghệ: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về các ngành kỹ nghệ (khoáng chất, chế biến, hóa chất...) các lĩnh vực tiểu công nghiệp; lập, thi hành kiểm soát những chương trình dài hạn thường niên; nghiên cứu thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.

- Nha Thương vụ: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về nội thương ngoại thương; quản các quan hệ kinh tế với nước ngoài, xuất, nhập khẩu; nghiên cứu các chính sách ngoại thương, chế độ thuế quan; liên lạc với Sở Hối đoái Bộ Tài chính.

- Nha Kinh tế Tín dụng: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về tín dụng phục vụ phát triển kinh tế trong nước; điều hành Quỹ Kinh tế Tín dụng các quan thuộc phạm vi tín dụng dành cho phát triển kinh tế (Kinh tế Ngân hàng, Nông phố Ngân hàng...); hỗ trợ tín dụng cho việc lập các công ty; chống nạn cho vay nặng lãi.

- Sở Thống kê: Đảm nhiệm việc thu thập các tài liệu, tính toán trình bày số liệu thống kê, xuất bản ấn phẩm Thống bạ, Thống nguyệt san.

Công tác quản nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế Quốc gia trong giai đoạn này tập trung vào mục tiêu cao nhất cứu đói cho nhân dân thông qua hỗ trợ khôi phục sản xuất nông nghiệp khơi thông dòng chảy lương thực giữa các vùng, miền trên cả nước; tiếp đến thực hiện mục tiêu khuyến khích giới thương nhân khôi phục sản xuất công nghiệp hoạt động giao thương hàng hóa, từng bước chấn hưng nền kinh tế đất nước.

Sau ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ông Nguyễn Tường Long được cử giữ chức vụ Bộ trưởng. Đồng thời, nhằm tập trung các nguồn lực để thực hiện công cuộc tái thiết nền kinh tế đất nước, Bộ Quốc dân Kinh tế tiếp quản thêm các nha kinh tế: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; các phòng thương mại, các sở ngũ cốc, các quan tiếp tế mọi ngành2.

Đến ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Chu Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Bộ Quốc dân Kinh tế được hoàn thiện, mở rộng thông qua việc sắp xếp lại tổ chức thêm một số đơn vị3, trong đó:

- Nha Kỹ nghệ đổi tên thành Nha Khoáng chất Kỹ nghệ; đảm nhiệm thêm việc lập bản đồ địa chất, quản hoạt động thăm dò, khai thác, nhượng quyền khai thác các mỏ khoáng sản.

- Nha Tiếp tế thành lập mới dựa trên việc tổ chức lại các quan tiếp tế trước đây. Nha Tiếp tế phụ trách phân phối nguyên vật liệu, hàng hóa cho hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp, cũng như cho tiêu dùng của người dân.

- Ban Thanh tra được thành lập mới nhằm kiểm tra các đơn vị trong việc tuân thủ, thi hành chủ trương, chính sách của Bộ.

- Ban Cố vấn Kinh tế được thành lập mới với nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu các chính sách kinh tế cho Bộ Chính phủ.

- Nha Nông mục Thủy lâm giải thể; Sở Thống đổi tên thành Nha Thống Việt Nam.

Ông Nguyễn Mạnh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia

Ông Nguyễn Mạnh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia (8/1945 - 01/1946) sinh tại thị Hưng Yên trong một gia đình Công giáo. Năm 1937, ông tốt nghiệp Khoa Luật học Chính trị, Trường Đại học Pari (Pháp). Sau khi về nước, ông được chính quyền thuộc địa cử giữ chức Giám đốc Kinh tế kiêm Thanh tra Lao động xứ Bắc Kỳ vào năm 1943.

Với cương vị này, ông đã nỗ lực đảm bảo việc cung ứng lương thực cùng với những người bạn như nhà sản dân tộc Nguyễn Sơn mở những điểm phát chẩn lương thực, giúp hàng nghìn người thoát khỏi nạn đói. Mặt trận Việt Minh biết điều này, cho nên biết ông Nguyễn Mạnh quốc tịch Pháp, vẫn mời ông tham gia Chính phủ.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946), ông Nguyễn Mạnh đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I đơn vị tỉnh Hưng Yên. Ông cũng thành viên trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang đàm phán với Pháp tại Hội nghị Fontainebleau vào tháng 7/1946.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông Nguyễn Mạnh bị kẹt lại Nội bất hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

Ông bị trục xuất về Pháp vào năm 1951 sống tại đây cho đến cuối đời.

b) Sau ngày 19/12/1946 đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), nền kinh tế Việt Nam chính thức chuyển sang nền kinh tế vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với phương châm “tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

Đối với ta, hậu phương các vùng rừng núi, vùng Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến, còn tiền tuyến các vùng đồng bằng giáp ranh, thành phố. Đối với thực dân Pháp, hậu phương các khu đô thị, khu công nghiệp quan trọng vùng đồng bằng lớn, tiền tuyến các vùng nông thôn.

Hoạt động giữa ta quân Pháp trên các chiến trường đã tạo nên hình thái giằng co “cài răng lược”, hình thành nên hai vùng chủ yếu: vùng tự do nơi hoàn toàn do ta quản kiểm soát vùng bị địch tạm chiếm nơi quân đội Pháp tạm thời kiểm soát hoàn toàn, xen kẽ phức tạp. Trước năm 1950, nhiều vùng tự do nằm hoàn toàn trong vòng vây của địch.

Điều này khiến các hoạt động sản xuất, giao thương hàng hóa chịu tác động mạnh, đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn mới đối với Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng trong hoạt động quản kinh tế.

Công tác quản nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế xuyên suốt trong cuộc kháng chiến tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chính, gồm: đảm bảo đời sống tối thiểu của các tầng lớp nhân dân; đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, đặc biệt về vật lực cho lực lượng trang, quan nhà nước doanh nghiệp quốc doanh; bước đầu xây dựng một số nhân tố của nền kinh tế dân chủ mới.

Việc tuyển chọn người cho bộ máy thực hiện theo nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kể quá khứ, thành phần giai cấp tôn giáo, nếu năng lực tinh thần yêu nước, toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc nhân dân đều được trọng dụng. Tháng 3/1947, luật Phan Anh được Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế đảm nhiệm chức vụ này xuyên suốt cuộc kháng chiến.

Khi cuộc kháng chiến mới bùng nổ, bộ máy của Bộ Kinh tế được sắp xếp lại theo hướng linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc kháng chiến. Cụ thể, các đơn vị đầu mối của Bộ được rút gọn xuống, chỉ còn: Văn phòng, các phòng sự vụ, Ban Thanh tra, Ban Cố vấn Kinh tế, Nha Thương vụ, Nha Khoáng chất Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế4. Đồng thời, thiết lập các sở kinh tế đặt tại các địa phương để giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản nhà nước về hoạt động sản xuất thương mại trong bối cảnh các địa phương thường xuyên bị chia cắt với Trung ương mỗi địa phương hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế khác nhau.

Tổ chức bộ máy của Bộ Kinh tế thường xuyên được kiện toàn, sắp xếp phù hợp nhằm đáp ứng các yêu cầu quản mới phát sinh gắn liền với các bước phát triển của công cuộc kháng chiến. Một số thay đổi quan trọng trong cấu bộ máy của Bộ Kinh tế giai đoạn này gồm:

- Ngày 03/02/1947, Nha Tín dụng sản xuất được thành lập theo Sắc lệnh số 14/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Tín dụng sản xuất chịu trách nhiệm quản lý, điều phối các nguồn tài chính để phát triển kinh tế trong nước, cung cấp các khoản hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi cho thương nhân mở rộng kinh doanh.

- Ngày 16/02/1947, Hội đồng sản xuất kỹ nghệ được thành lập theo Sắc lệnh số 23/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội đồng sản xuất kỹ nghệ nhiệm vụ nghiên cứu chương trình, kế hoạch sản xuất kỹ nghệ kiểm soát việc thi hành những chương trình, kế hoạch ấy.

- Ngày 16/3/1947, Ngoại thương Cục được thành lập theo Sắc lệnh số 29/B-SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoại thương Cục chịu trách nhiệm quản hoạt động xuất, nhập khẩu, kiểm soát các loại hàng hóa được phép xuất khẩu nhập khẩu.

- Ngày 29/02/1948, Cục Tiếp tế vận tải được thành lập, thay thế cho Nha Tiếp tế theo Sắc lệnh số 140/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 28/5/1948, Nha Thống được tái lập theo Sắc lệnh số 190/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Thống nhiệm vụ lưu trữ số liệu về tất cả các lĩnh vực do Bộ Kinh tế quản lý. Đến ngày 25/4/1949, Nha Thống được chuyển sang Chủ tịch Phủ theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 25/4/1949 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 21/12/1949, Nha Thương vụ được đổi tên thành Nha Thương mại; Nha Khoáng chất Kỹ nghệ được đổi tên thành Nha Kỹ nghệ theo Sắc lệnh số 143/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 17/11/1950, Sở Nội thương được thành lập, thay thế cho Cục Tiếp tế vận tải theo Sắc lệnh số 168/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Nội thương chịu trách nhiệm quản các hoạt động kinh doanh, thương mại trong nước đấu tranh kinh tế với địch.

- Ngày 14/5/1951, Sở Mậu dịch được thành lập, thay thế cho Sở Nội thương Ngoại thương Cục theo Sắc lệnh số 22/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Mậu dịch nhiệm vụ tổ chức, việc buôn bán trong nước, việc buôn bán trao đổi với nước ngoài việc đấu tranh mậu dịch với địch.

Các quan của Bộ Kinh tế được bố trí tập trung tại tỉnh Tuyên Quang, thuộc Liên khu Việt Bắc trong suốt cuộc kháng chiến. Cụ thể, từ năm 1947 đến năm 1950, các quan được đặt tại Kim Quan, huyện Yên Sơn, từ năm 1950 đến năm 1952 chuyển đến Hùng Mỹ, huyện Chiêm Hóa. Sau đó chuyển đến Bình Yên, huyện Sơn Dương từ năm 1952 đến năm 1953 Minh Thanh, huyện Sơn Dương từ năm 1953 đến năm 1954.

Sự thay đổi tên gọi của Bộ Công Thương giai đoạn 1945 - 1954

- Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Ông Nguyễn Mạnh đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn Tường Long đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Chu Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 03/11/1946, Bộ Kinh tế nằm trong Chính phủ mới (thay cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thành phần do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, thông qua ngày 03/11/1946 được bổ sung cho đến năm 1955). Ông Ngô Tấn Nhơn đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. Ông Phan Anh đảm nhiệm chức vụ này từ tháng 3/1947.

- Ngày 14/5/1951, Bộ Kinh tế được đổi tên thành Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 21/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phan Anh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng.

Kiến quốc cần nhân tài

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “kiến quốc cần nhân tài”. Người đã viết hai bài “Nhân tài Kiến quốc”, “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc để tìm người năng lực mong muốn tham gia xây dựng, kiến thiết Tổ quốc. Do đó, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số trí thức, nhân trong chính quyền ra giữ trọng trách một số bộ trong Chính phủ; trong đó, luật Phan Anh được mời làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế vào tháng 3/1947.

Trước đó, vào tháng 4/1945, uy tín đạo đức chuyên môn cao của luật Phan Anh đã khiến Lệ thần Trần Trọng Kim mời ông làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ Đế quốc Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong mọi hoạt động của mình, thái độ nhập thế của luật Phan Anh luôn chỉ thể hiện ham muốn phụng sự dân tộc đất nước. Chính thế nên sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, luật Phan Anh đã rất nhẹ nhàng từ chức cùng nội các Trần Trọng Kim rất vinh dự nhận nhiệm vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho, đó thành lập giữ chức Chủ tịch “Hội đồng Kiến thiết Quốc gia” tập hợp hầu hết các trí thức tiến bộ Nội thời ấy.


1. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.35.

2. Sắc lệnh số 12/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Sắc lệnh số 61/SL ngày 06/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

4. Sắc lệnh số 220/SL ngày 26/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương

a) Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước ngày 19/12/1946

Đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải sớm đưa bộ máy kinh tế còn đang hết sức rệu vào hoạt động trở lại, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt được, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay) để thực hiện chức năng quản nhà nước về kinh tế cử ông Nguyễn Mạnh giữ chức Bộ trưởng.

Bộ máy quản của Bộ Kinh tế Quốc gia gồm 1 văn phòng, 7 phòng sự vụ, 4 nha sở thống 1. Cụ thể:

- Văn phòng Bộ: Giúp việc cho Bộ trưởng trong việc tổ chức các hoạt động chung của Bộ.

- Phòng Công văn Viên chức (Phòng Nhất): Nhận phát các công văn; trình ký, lưu trữ công văn; thực hiện công tác văn phòng, kế toán, nhân sự, ngân sách trong Bộ các công tác tố tụng về Bộ.

- Phòng Cổ động Pháp chế (Phòng Nhì): Cổ động, thông cáo, thu thập tài liệu, khảo cứu, liên lạc với các quan, xây dựng các đạo luật về kinh tế.

- Phòng Kinh tế tập san (Phòng Ba): Xuất bản ấn phẩm Việt Nam Kinh tế Tập san.

- Phòng Nông mục Thuỷ lâm (Phòng Tư): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Nông mục Thủy lâm.

- Phòng Kỹ nghệ (Phòng Năm): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kỹ nghệ.

- Phòng Thương vụ (Phòng Sáu): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Thương vụ.

- Phòng Kinh tế Tín dụng (Phòng Bảy): Đảm nhiệm việc khảo cứu các vấn đề chung thuộc phạm vi Nha Kinh tế Tín dụng.

- Nha Nông mục Thủy lâm: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, ngư nghiệp, săn bắn; lập, thi hành kiểm soát những chương trình dài hạn (3 năm, 5 năm...) thường niên về các lĩnh vực thuộc Nha quản lý; nghiên cứu thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.

- Nha Kỹ nghệ: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về các ngành kỹ nghệ (khoáng chất, chế biến, hóa chất...) các lĩnh vực tiểu công nghiệp; lập, thi hành kiểm soát những chương trình dài hạn thường niên; nghiên cứu thi hành các biện pháp làm tăng sức sản xuất chất lượng; khai thác các nguồn lợi thuộc Nha quản lý.

- Nha Thương vụ: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về nội thương ngoại thương; quản các quan hệ kinh tế với nước ngoài, xuất, nhập khẩu; nghiên cứu các chính sách ngoại thương, chế độ thuế quan; liên lạc với Sở Hối đoái Bộ Tài chính.

- Nha Kinh tế Tín dụng: Đảm nhiệm các việc hành chính chuyên môn về tín dụng phục vụ phát triển kinh tế trong nước; điều hành Quỹ Kinh tế Tín dụng các quan thuộc phạm vi tín dụng dành cho phát triển kinh tế (Kinh tế Ngân hàng, Nông phố Ngân hàng...); hỗ trợ tín dụng cho việc lập các công ty; chống nạn cho vay nặng lãi.

- Sở Thống kê: Đảm nhiệm việc thu thập các tài liệu, tính toán trình bày số liệu thống kê, xuất bản ấn phẩm Thống bạ, Thống nguyệt san.

Công tác quản nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế Quốc gia trong giai đoạn này tập trung vào mục tiêu cao nhất cứu đói cho nhân dân thông qua hỗ trợ khôi phục sản xuất nông nghiệp khơi thông dòng chảy lương thực giữa các vùng, miền trên cả nước; tiếp đến thực hiện mục tiêu khuyến khích giới thương nhân khôi phục sản xuất công nghiệp hoạt động giao thương hàng hóa, từng bước chấn hưng nền kinh tế đất nước.

Sau ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ông Nguyễn Tường Long được cử giữ chức vụ Bộ trưởng. Đồng thời, nhằm tập trung các nguồn lực để thực hiện công cuộc tái thiết nền kinh tế đất nước, Bộ Quốc dân Kinh tế tiếp quản thêm các nha kinh tế: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; các phòng thương mại, các sở ngũ cốc, các quan tiếp tế mọi ngành2.

Đến ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Chu Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Bộ Quốc dân Kinh tế được hoàn thiện, mở rộng thông qua việc sắp xếp lại tổ chức thêm một số đơn vị3, trong đó:

- Nha Kỹ nghệ đổi tên thành Nha Khoáng chất Kỹ nghệ; đảm nhiệm thêm việc lập bản đồ địa chất, quản hoạt động thăm dò, khai thác, nhượng quyền khai thác các mỏ khoáng sản.

- Nha Tiếp tế thành lập mới dựa trên việc tổ chức lại các quan tiếp tế trước đây. Nha Tiếp tế phụ trách phân phối nguyên vật liệu, hàng hóa cho hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp, cũng như cho tiêu dùng của người dân.

- Ban Thanh tra được thành lập mới nhằm kiểm tra các đơn vị trong việc tuân thủ, thi hành chủ trương, chính sách của Bộ.

- Ban Cố vấn Kinh tế được thành lập mới với nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu các chính sách kinh tế cho Bộ Chính phủ.

- Nha Nông mục Thủy lâm giải thể; Sở Thống đổi tên thành Nha Thống Việt Nam.

Ông Nguyễn Mạnh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia

Ông Nguyễn Mạnh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia (8/1945 - 01/1946) sinh tại thị Hưng Yên trong một gia đình Công giáo. Năm 1937, ông tốt nghiệp Khoa Luật học Chính trị, Trường Đại học Pari (Pháp). Sau khi về nước, ông được chính quyền thuộc địa cử giữ chức Giám đốc Kinh tế kiêm Thanh tra Lao động xứ Bắc Kỳ vào năm 1943.

Với cương vị này, ông đã nỗ lực đảm bảo việc cung ứng lương thực cùng với những người bạn như nhà sản dân tộc Nguyễn Sơn mở những điểm phát chẩn lương thực, giúp hàng nghìn người thoát khỏi nạn đói. Mặt trận Việt Minh biết điều này, cho nên biết ông Nguyễn Mạnh quốc tịch Pháp, vẫn mời ông tham gia Chính phủ.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946), ông Nguyễn Mạnh đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I đơn vị tỉnh Hưng Yên. Ông cũng thành viên trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang đàm phán với Pháp tại Hội nghị Fontainebleau vào tháng 7/1946.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông Nguyễn Mạnh bị kẹt lại Nội bất hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

Ông bị trục xuất về Pháp vào năm 1951 sống tại đây cho đến cuối đời.

b) Sau ngày 19/12/1946 đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), nền kinh tế Việt Nam chính thức chuyển sang nền kinh tế vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với phương châm “tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

Đối với ta, hậu phương các vùng rừng núi, vùng Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến, còn tiền tuyến các vùng đồng bằng giáp ranh, thành phố. Đối với thực dân Pháp, hậu phương các khu đô thị, khu công nghiệp quan trọng vùng đồng bằng lớn, tiền tuyến các vùng nông thôn.

Hoạt động giữa ta quân Pháp trên các chiến trường đã tạo nên hình thái giằng co “cài răng lược”, hình thành nên hai vùng chủ yếu: vùng tự do nơi hoàn toàn do ta quản kiểm soát vùng bị địch tạm chiếm nơi quân đội Pháp tạm thời kiểm soát hoàn toàn, xen kẽ phức tạp. Trước năm 1950, nhiều vùng tự do nằm hoàn toàn trong vòng vây của địch.

Điều này khiến các hoạt động sản xuất, giao thương hàng hóa chịu tác động mạnh, đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn mới đối với Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng trong hoạt động quản kinh tế.

Công tác quản nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế xuyên suốt trong cuộc kháng chiến tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chính, gồm: đảm bảo đời sống tối thiểu của các tầng lớp nhân dân; đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, đặc biệt về vật lực cho lực lượng trang, quan nhà nước doanh nghiệp quốc doanh; bước đầu xây dựng một số nhân tố của nền kinh tế dân chủ mới.

Việc tuyển chọn người cho bộ máy thực hiện theo nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kể quá khứ, thành phần giai cấp tôn giáo, nếu năng lực tinh thần yêu nước, toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc nhân dân đều được trọng dụng. Tháng 3/1947, luật Phan Anh được Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế đảm nhiệm chức vụ này xuyên suốt cuộc kháng chiến.

Khi cuộc kháng chiến mới bùng nổ, bộ máy của Bộ Kinh tế được sắp xếp lại theo hướng linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc kháng chiến. Cụ thể, các đơn vị đầu mối của Bộ được rút gọn xuống, chỉ còn: Văn phòng, các phòng sự vụ, Ban Thanh tra, Ban Cố vấn Kinh tế, Nha Thương vụ, Nha Khoáng chất Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế4. Đồng thời, thiết lập các sở kinh tế đặt tại các địa phương để giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản nhà nước về hoạt động sản xuất thương mại trong bối cảnh các địa phương thường xuyên bị chia cắt với Trung ương mỗi địa phương hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế khác nhau.

Tổ chức bộ máy của Bộ Kinh tế thường xuyên được kiện toàn, sắp xếp phù hợp nhằm đáp ứng các yêu cầu quản mới phát sinh gắn liền với các bước phát triển của công cuộc kháng chiến. Một số thay đổi quan trọng trong cấu bộ máy của Bộ Kinh tế giai đoạn này gồm:

- Ngày 03/02/1947, Nha Tín dụng sản xuất được thành lập theo Sắc lệnh số 14/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Tín dụng sản xuất chịu trách nhiệm quản lý, điều phối các nguồn tài chính để phát triển kinh tế trong nước, cung cấp các khoản hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi cho thương nhân mở rộng kinh doanh.

- Ngày 16/02/1947, Hội đồng sản xuất kỹ nghệ được thành lập theo Sắc lệnh số 23/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội đồng sản xuất kỹ nghệ nhiệm vụ nghiên cứu chương trình, kế hoạch sản xuất kỹ nghệ kiểm soát việc thi hành những chương trình, kế hoạch ấy.

- Ngày 16/3/1947, Ngoại thương Cục được thành lập theo Sắc lệnh số 29/B-SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoại thương Cục chịu trách nhiệm quản hoạt động xuất, nhập khẩu, kiểm soát các loại hàng hóa được phép xuất khẩu nhập khẩu.

- Ngày 29/02/1948, Cục Tiếp tế vận tải được thành lập, thay thế cho Nha Tiếp tế theo Sắc lệnh số 140/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 28/5/1948, Nha Thống được tái lập theo Sắc lệnh số 190/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nha Thống nhiệm vụ lưu trữ số liệu về tất cả các lĩnh vực do Bộ Kinh tế quản lý. Đến ngày 25/4/1949, Nha Thống được chuyển sang Chủ tịch Phủ theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 25/4/1949 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 21/12/1949, Nha Thương vụ được đổi tên thành Nha Thương mại; Nha Khoáng chất Kỹ nghệ được đổi tên thành Nha Kỹ nghệ theo Sắc lệnh số 143/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 17/11/1950, Sở Nội thương được thành lập, thay thế cho Cục Tiếp tế vận tải theo Sắc lệnh số 168/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Nội thương chịu trách nhiệm quản các hoạt động kinh doanh, thương mại trong nước đấu tranh kinh tế với địch.

- Ngày 14/5/1951, Sở Mậu dịch được thành lập, thay thế cho Sở Nội thương Ngoại thương Cục theo Sắc lệnh số 22/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Mậu dịch nhiệm vụ tổ chức, việc buôn bán trong nước, việc buôn bán trao đổi với nước ngoài việc đấu tranh mậu dịch với địch.

Các quan của Bộ Kinh tế được bố trí tập trung tại tỉnh Tuyên Quang, thuộc Liên khu Việt Bắc trong suốt cuộc kháng chiến. Cụ thể, từ năm 1947 đến năm 1950, các quan được đặt tại Kim Quan, huyện Yên Sơn, từ năm 1950 đến năm 1952 chuyển đến Hùng Mỹ, huyện Chiêm Hóa. Sau đó chuyển đến Bình Yên, huyện Sơn Dương từ năm 1952 đến năm 1953 Minh Thanh, huyện Sơn Dương từ năm 1953 đến năm 1954.

Sự thay đổi tên gọi của Bộ Công Thương giai đoạn 1945 - 1954

- Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Bộ Kinh tế Quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Ông Nguyễn Mạnh đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 01/01/1946, Bộ Kinh tế Quốc gia được đổi tên thành Bộ Quốc dân Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn Tường Long đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 02/3/1946, Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Chu Phượng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng.

- Ngày 03/11/1946, Bộ Kinh tế nằm trong Chính phủ mới (thay cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thành phần do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, thông qua ngày 03/11/1946 được bổ sung cho đến năm 1955). Ông Ngô Tấn Nhơn đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng. Ông Phan Anh đảm nhiệm chức vụ này từ tháng 3/1947.

- Ngày 14/5/1951, Bộ Kinh tế được đổi tên thành Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 21/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phan Anh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng.

Kiến quốc cần nhân tài

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “kiến quốc cần nhân tài”. Người đã viết hai bài “Nhân tài Kiến quốc”, “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc để tìm người năng lực mong muốn tham gia xây dựng, kiến thiết Tổ quốc. Do đó, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số trí thức, nhân trong chính quyền ra giữ trọng trách một số bộ trong Chính phủ; trong đó, luật Phan Anh được mời làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế vào tháng 3/1947.

Trước đó, vào tháng 4/1945, uy tín đạo đức chuyên môn cao của luật Phan Anh đã khiến Lệ thần Trần Trọng Kim mời ông làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ Đế quốc Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong mọi hoạt động của mình, thái độ nhập thế của luật Phan Anh luôn chỉ thể hiện ham muốn phụng sự dân tộc đất nước. Chính thế nên sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, luật Phan Anh đã rất nhẹ nhàng từ chức cùng nội các Trần Trọng Kim rất vinh dự nhận nhiệm vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho, đó thành lập giữ chức Chủ tịch “Hội đồng Kiến thiết Quốc gia” tập hợp hầu hết các trí thức tiến bộ Nội thời ấy.


1. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.35.

2. Sắc lệnh số 12/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Sắc lệnh số 61/SL ngày 06/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

4. Sắc lệnh số 220/SL ngày 26/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại

Hoạt động công nghiệp và thương mại của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sa sút nghiêm trọng.

Các hoạt động sản xuất công nghiệp gần như bị tê liệt. Hàng loạt cơ sở công nghiệp nặng quan trọng vốn bị quân đội phátxít Nhật chiếm đóng trước đây để phục vụ mục đích quân sự đã bị phá hủy nghiêm trọng khi lực lượng Đồng minh không kích trong thời gian xảy ra chiến tranh. Nhiều nhà máy trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ có chủ là người Pháp, Nhật đã bị đóng cửa, ngưng hoạt động và thanh lý máy móc nhằm thoái vốn trước các biến động thời cuộc. Số ít các nhà máy còn có thể sửa chữa, khôi phục lại hoạt động được thì lại thiếu hụt trầm trọng nguyên vật liệu đầu vào.

Sản lượng của nhiều ngành công nghiệp chỉ bằng 10 - 20% so với trước chiến tranh, đời sống của hàng chục nghìn công nhân bị thất nghiệp rất khó khăn. Đơn cử, trong ngành khai thác than, năm 1940 có 39.500 công nhân thì đến năm 1945 chỉ còn 4.000 công nhân. Sản lượng khai thác trong năm 1940 đạt 2.500.000 tấn thì đến năm 1945 chỉ được 231.000 tấn. Các hoạt động khai thác kẽm, thiếc, sắt, phốtphát cũng đều suy giảm nghiêm trọng trong khi khai khoáng vốn là lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam thời kỳ này.

Việt Nam mới chỉ quản lý được một số nhà máy, cơ sở công nghiệp phục vụ các nhu cầu thiết yếu nhất như cung cấp điện, nước, hoạt động vận tải đường sắt. Khu vực tiểu thủ công nghiệp bị mai một, suy thoái khi một bộ phận lớn thợ thủ công ly tán khỏi các làng nghề truyền thống, bỏ nghề do chiến tranh và nạn đói cũng như các biến động kinh tế khác.

Tương tự, hoạt động thương mại nội địa lẫn xuất, nhập khẩu đều bị đình đốn. Từ giữa tháng 8/1942, lực lượng Đồng minh do Mỹ dẫn đầu đã không kích, phá hủy nặng nề các tuyến đường vận tải chính tại Đông Dương nhằm chống lại quân đội phátxít Nhật. Đến năm 1945, tuyến đường sắt xuyên Đông Dương, trục đường Thiên lý Bắc - Nam (Đường thuộc địa số 1) cũng như nhiều tuyến đường giao thông chính khác, các cảng biển quan trọng như cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn bị phá hủy nghiêm trọng, lưu thông hàng hóa ách tắc. Bên cạnh đó, việc hoạt động sản xuất suy giảm khiến hàng hóa, đặc biệt là các loại hàng hóa tiêu dùng, trở nên khan hiếm. Tình trạng lạm phát vượt kiểm soát, nạn tiền Quan kim và Quốc tệ do quân đội Trung Hoa Dân quốc đem vào lưu hành tại Việt Nam càng khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn.

Nạn đói năm Ất Dậu

Có mặt tại Việt Nam ngay những ngày sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông Jean Sainteny (đại diện của Chính phủ Pháp trong cuộc đàm phán Pháp - Việt vào ngày 06/3/1946) đã mô tả về tình cảnh thiếu hụt nhiều loại hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam trong cuốn hồi ký “Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ” (Histoire d’une paix manquée: Indochine, 1945 - 1947) của mình như sau: “... Còn người dân bản xứ thì đang phải chịu một nạn đói thảm họa nhất trong lịch sử Bắc Kỳ. Nhằm tăng thêm sự hỗn loạn, Nhật Bản đã phá hủy nhiều kho thóc. Bắc Kỳ là xứ thiếu gạo, vẫn thường phải nhập gạo của Nam Kỳ, mỗi năm hàng chục vạn tấn để thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Thế nhưng, các tàu thủy và thuyền buôn lớn đã bị đánh đắm, đường xe lửa xuyên Đông Dương đã bị máy bay Đồng Minh ném bom cắt đứt nhiều quãng. Vụ gặt tháng Mười ở Bắc Kỳ hầu như hoàn toàn mất trắng vì những trận lụt khủng khiếp hồi tháng Tám. Nhiều dân nông thôn vùng đồng bằng bị đói đã tự động kéo tới những đường phố Hà Nội rồi lịm dần vì chết đói. Giá gạo tăng kinh khủng. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng từ năm đồng lên bẩy đồng, rồi thậm chí lên tới chín đồng Đông Dương một kilô.... Và, nếu Bắc Kỳ thiếu gạo thì Sài Gòn lại thiếu than và đã phải dùng dầu Mazut để chạy điện cho sáu trung tâm phát điện. Sài Gòn không ngừng gửi điện, đòi cung cấp than. Trung Hoa Dân quốc cũng yêu sách, đòi được cung cấp than, viện cớ là nước được Hội nghị Potsdam giao cho làm nhiệm vụ ở Bắc Đông Dương và trên nguyên tắc mỏ than Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản được tiếp quản. Chính phủ Cách mạng Việt Minh cũng đòi quyền kiểm soát”.

Nguồn: Jean Sainteny: Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ,

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.178-179.

II. Những chủ trương và biện pháp khôi phục, phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại (19/8/1945 - 19/12/1946)

Bác Hồ gặp công thương Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) nhà máy giấy Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh