Giá cả
Ngay sau khi đánh chiếm Nam Kỳ vào năm 1862, chính quyền thuộc địa đã nhận thấy sự cần thiết của việc thiết lập một ngân hàng riêng tại đây để vừa phục vụ cho việc khai thác thuế vừa điều chỉnh nền kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, sự có mặt của nhiều thương nhân châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản… với các đồng tiền riêng của mình đã tạo ra những rắc rối trong thanh toán vì vấn đề định giá, quy đổi tiền tệ…, do đó chính quyền thuộc địa cần có đồng tiền chung cho Liên bang Đông Dương để bảo vệ các lợi ích của mình tại đây.
Ngày 21/1/1875, Chính phủ Pháp thành lập Ngân hàng Đông Dương và bắt đầu phát hành đồng tiền riêng dành cho xứ Đông Dương và giá trị được neo cố định với đồng Franc Pháp với tỷ lệ 1 đồng Đông Dương đổi 10 đồng Franc Pháp. Như vậy, người Pháp đã thống nhất tiền tệ, chủ động áp đặt tỉ giá, chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế tại khu vực Đông Dương.
Ban đầu hệ thống tiền tệ này đã góp phần khơi thông lưu chuyển hàng hóa trên thị trường nội địa, mở rộng hoạt động ngoại thương, đặc biệt là khối các nước sử dụng đồng Franc Pháp. Hỗ trợ việc du nhập các kỹ nghệ sản xuất hiện đại, phát triển các hoạt động công nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, các chính sách tài chính - kinh tế méo mó của chính quyền thuộc địa nhằm khai thác triệt để thị trường thuộc địa và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào những năm 1930 đã khiến hệ thống tiền tệ này bắt đầu trở nên hỗn loạn. Đồng thời, nhu cầu xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông, lâm sản sụt giảm nghiêm trọng, giá các mặt hàng này rơi xuống mức thấp kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và sức mua của người dân, đặc biệt là các hộ nông dân. Đặc biệt, việc giá lúa gạo tại Nam Kỳ giảm từ mức trung bình 1,30 đồng Đông Dương/giạ trong năm 1926 xuống còn 0,4 đồng Đông Dương/giạ vào năm 1933 - mức thấp nhất trong vòng 30 năm khiến “dân Nam Kỳ nghèo,… không có tháng nào, năm nào mà giá lúa rẻ tệ mạt như năm nay vậy”15. Xuất khẩu lúa gạo vốn chiếm từ 40% - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này.
Hàng hóa trở nên ế ẩm. Tại Sài Gòn, chỉ số giá bán buôn các sản phẩm giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống còn 88 điểm vào năm 1932, và 71 điểm trong năm 1935. Tương tự, tại Hà Nội, chỉ số này cũng giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống chỉ còn 70 điểm trong năm 1936.
Những bất hợp lý trong sự phát triển nền kinh tế khiến chênh lệch giữa giá của sản phẩm nông nghiệp với giá của sản phẩm công nghiệp ở mức rất cao. Ví dụ, giá 1 thếp giấy viết tương đương giá 5 kg gạo, giá 1 lít dầu hỏa bằng giá 3 kg gạo. Đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nhất là khi phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, đồng tiền Đông Dương trượt giá mạnh, giá các mặt hàng chính thức do chính quyền thực dân Pháp áp đặt luôn thấp hơn nhiều so với giá thị trường chợ đen. Trong khi đó thu nhập của đại bộ phận dân chúng ở mức rất thấp.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
“Đông Dương kêu cứu”
Trong sách Indochine S. O. S (Đông Dương kêu cứu) phát hành năm 1935, nữ nhà báo người Pháp Andrée Viollis cho biết “Ngoại trừ tại các thành phố lớn, tiền lương của công nhân không bao giờ vượt quá 2 Franc đến 2,50 Franc/ngày. Trong các nhà máy dệt, một ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, lương ngày của nam giới là từ 1,75 Franc đến 2 Franc, từ 1,25 Franc đến 1,50 Franc đối với phụ nữ và 0,75 Franc cho trẻ em từ 8 đến 10 tuổi”. Trong khi đó, tại Hà Nội, giá bán lẻ 1 kg gạo thường là hơn 0,3 Franc và giá 1 kg thịt lợn là hơn 3 Franc nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức 1 đồng Đông Dương đổi được 10 Franc Pháp.
15.T.V (1933). Thị trường lúa gạo ở Nam Kỳ trong 30 năm nay (1905 - 1933). Phụ Nữ Tân Văn, số 219 (Tháng 10/1933), tr.7.
Giá cả
Ngay sau khi đánh chiếm Nam Kỳ vào năm 1862, chính quyền thuộc địa đã nhận thấy sự cần thiết của việc thiết lập một ngân hàng riêng tại đây để vừa phục vụ cho việc khai thác thuế vừa điều chỉnh nền kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, sự có mặt của nhiều thương nhân châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản… với các đồng tiền riêng của mình đã tạo ra những rắc rối trong thanh toán vì vấn đề định giá, quy đổi tiền tệ…, do đó chính quyền thuộc địa cần có đồng tiền chung cho Liên bang Đông Dương để bảo vệ các lợi ích của mình tại đây.
Ngày 21/1/1875, Chính phủ Pháp thành lập Ngân hàng Đông Dương và bắt đầu phát hành đồng tiền riêng dành cho xứ Đông Dương và giá trị được neo cố định với đồng Franc Pháp với tỷ lệ 1 đồng Đông Dương đổi 10 đồng Franc Pháp. Như vậy, người Pháp đã thống nhất tiền tệ, chủ động áp đặt tỉ giá, chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế tại khu vực Đông Dương.
Ban đầu hệ thống tiền tệ này đã góp phần khơi thông lưu chuyển hàng hóa trên thị trường nội địa, mở rộng hoạt động ngoại thương, đặc biệt là khối các nước sử dụng đồng Franc Pháp. Hỗ trợ việc du nhập các kỹ nghệ sản xuất hiện đại, phát triển các hoạt động công nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, các chính sách tài chính - kinh tế méo mó của chính quyền thuộc địa nhằm khai thác triệt để thị trường thuộc địa và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào những năm 1930 đã khiến hệ thống tiền tệ này bắt đầu trở nên hỗn loạn. Đồng thời, nhu cầu xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông, lâm sản sụt giảm nghiêm trọng, giá các mặt hàng này rơi xuống mức thấp kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và sức mua của người dân, đặc biệt là các hộ nông dân. Đặc biệt, việc giá lúa gạo tại Nam Kỳ giảm từ mức trung bình 1,30 đồng Đông Dương/giạ trong năm 1926 xuống còn 0,4 đồng Đông Dương/giạ vào năm 1933 - mức thấp nhất trong vòng 30 năm khiến “dân Nam Kỳ nghèo,… không có tháng nào, năm nào mà giá lúa rẻ tệ mạt như năm nay vậy”15. Xuất khẩu lúa gạo vốn chiếm từ 40% - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này.
Hàng hóa trở nên ế ẩm. Tại Sài Gòn, chỉ số giá bán buôn các sản phẩm giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống còn 88 điểm vào năm 1932, và 71 điểm trong năm 1935. Tương tự, tại Hà Nội, chỉ số này cũng giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống chỉ còn 70 điểm trong năm 1936.
Những bất hợp lý trong sự phát triển nền kinh tế khiến chênh lệch giữa giá của sản phẩm nông nghiệp với giá của sản phẩm công nghiệp ở mức rất cao. Ví dụ, giá 1 thếp giấy viết tương đương giá 5 kg gạo, giá 1 lít dầu hỏa bằng giá 3 kg gạo. Đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nhất là khi phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, đồng tiền Đông Dương trượt giá mạnh, giá các mặt hàng chính thức do chính quyền thực dân Pháp áp đặt luôn thấp hơn nhiều so với giá thị trường chợ đen. Trong khi đó thu nhập của đại bộ phận dân chúng ở mức rất thấp.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
“Đông Dương kêu cứu”
Trong sách Indochine S. O. S (Đông Dương kêu cứu) phát hành năm 1935, nữ nhà báo người Pháp Andrée Viollis cho biết “Ngoại trừ tại các thành phố lớn, tiền lương của công nhân không bao giờ vượt quá 2 Franc đến 2,50 Franc/ngày. Trong các nhà máy dệt, một ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, lương ngày của nam giới là từ 1,75 Franc đến 2 Franc, từ 1,25 Franc đến 1,50 Franc đối với phụ nữ và 0,75 Franc cho trẻ em từ 8 đến 10 tuổi”. Trong khi đó, tại Hà Nội, giá bán lẻ 1 kg gạo thường là hơn 0,3 Franc và giá 1 kg thịt lợn là hơn 3 Franc nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức 1 đồng Đông Dương đổi được 10 Franc Pháp.
15.T.V (1933). Thị trường lúa gạo ở Nam Kỳ trong 30 năm nay (1905 - 1933). Phụ Nữ Tân Văn, số 219 (Tháng 10/1933), tr.7.
Ba thứ “công quản” của chính quyền thuộc địa
Để thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa thì cần có nguồn tài chính khổng lồ và để thu được tiền, chính quyền thuộc địa đã áp dụng nhiều biện pháp để bóc lột dân chúng. Đặc biệt, chính quyền thuộc địa áp dụng chế độ trực tiếp quản lý (hay còn gọi là chế độ công quản) ba mặt hàng đặc biệt, gồm muối, rượu và thuốc phiện thông qua các cơ sở độc quyền - các Ty (régies) thu mua - chế biến, và cưỡng bức người dân tiêu thụ các sản phẩm này với mức giá rất cao nhằm thu lợi nhuận.
Đối với muối - sản phẩm không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân, chính quyền Pháp đã áp dụng chế độ độc quyền mặt hàng này từ năm 1897. Theo đó, toàn bộ số muối mà người dân sản xuất được buộc phải bán cho chính quyền cai trị với mức giá rất thấp. Sau đó, chính quyền Pháp bán lại cho người dân, bao gồm cả người trực tiếp sản xuất muối, với giá cao gấp nhiều lần so với mức giá thu mua.
Chế độ công quản muối không chỉ phục vụ mục tiêu tài chính của chính quyền cai trị mà còn được dùng như một công cụ để trói buộc nhân dân ta. Đây được xem là một trong những chính sách bóc lột thuộc địa có hiệu quả nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chế độ thuế này đã gây nên nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế của toàn bộ nhân dân Việt Nam, đặc biệt đối với cư dân vùng biển, nghề làm muối, nghề làm mắm đều bị điêu đứng vì chính sách độc quyền này.
Đối với rượu, chính quyền Pháp giao việc độc quyền sản xuất và bán rượu tại Việt Nam cho Công ty Rượu Đông Dương (Société françaises des Distilleries de l’Indochine) và cấm người dân không được nấu rượu, kể cả việc tự nấu rượu để uống kể từ năm 1902. Đồng thời, chính quyền thuộc địa thực hiện các biện pháp vừa khuyến khích vừa ép buộc người dân phải tiêu thụ rượu với mức giá rất cao. Lượng rượu tiêu thụ được ấn định tới từng xã với định mức 5 lít rượu/năm/suất đinh (nam giới từ 18 tuổi đến 60 tuổi) và các lý trưởng phải chịu trách nhiệm đạt định mức tiêu thụ rượu.
Đối với thuốc phiện, chế độ độc quyền thu mua, chế biến và phân phối mặt hàng độc hại này được chính quyền Pháp thực hiện trên toàn nước ta từ năm 1899. Việc sử dụng thuốc phiện diễn ra tự do và được khuyến khích do đem lại nguồn lợi vô cùng lớn cho chính quyền cai trị và người sử dụng chủ yếu là người Việt và người Hoa. Chính sách này đã biến thuốc phiện trở thành một tệ nạn xã hội, thâm nhập sâu vào mọi tầng lớp xã hội Việt Nam, gây ra những hậu quả nặng nề, kéo dài. Trước năm 1860, thuốc phiện chỉ được tiêu thụ lén lút trong giới thương nhân giàu, điền chủ lớn và một bộ phận quan lại do triều đình nhà Nguyễn nghiêm cấm dân chúng sử dụng và có thể xử tội xử tử nếu phát hiện người vi phạm.
Nguồn lợi từ ba mặt hàng rượu, muối và thuốc phiện đóng vai trò quan trọng trong ngân sách của chính quyền thuộc địa và tạo nguồn tài chính cho việc triển khai các hoạt động khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa cũng áp dụng hình thức kinh doanh phân phối độc quyền đối với một số mặt hàng dân sinh thiết yếu khác như diêm, xăng dầu, thuốc lá…