Sản xuất bia một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam. Năm 1875, ông Victor Larue - một quan hàng hải Pháp giải ngũ đã thành lập một xưởng bia nhỏ tại Sài Gòn. Xưởng bia này dần phát triển thành hãng lớn với tên gọi Hãng Bia Nước đá Đông Dương (Brasseries Glacières d’Indochine), chuyên sản xuất bia, nước giải khát nước đá vào năm 1927. Hãng bia nước đá Đông Dương thiết lập hàng loạt nhà máy sản xuất nước giải khát đá tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Nội, Hải Phòng, Cần Thơ PhnomPenh (Campuchia).

Tại Nội, xưởng bia đầu tiên công suất 150 lít bia/ngày được thành lập vào năm 1890 bởi Alfred Hommel; đến năm 1892, Công ty Bia Hommel (Société de la Brasserie Hommel) được hình thành. Sản phẩm bia của công ty dần được tiêu thụ rộng rãi trên toàn bộ xứ Bắc Kỳ, phía Bắc xứ Trung Kỳ Lào. Sức tiêu thụ bia gia tăng đã thúc đẩy công ty mở xưởng bia thứ 2 cũng tại Nội, nâng tổng công suất thiết kế lên mức 400.000 lít/năm vào năm 1908 đạt tới 2.000.000 lít/năm vào năm 1922. Đến năm 1928, Hãng Bia Nước đá Đông Dương dần thâu tóm Công ty Bia Hommel đạt vị thế độc quyền trong việc sản xuất bia, nước giải khát nước đá tại Đông Dương. Khác với rượu được tiêu thụ rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng, sản phẩm bia chủ yếu phục vụ người châu Âu tầng lớp trung lưu người bản xứ các khu đô thị, thị trấn lớn tại Đông Dương.

Những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, người Pháp bắt đầu quan tâm đến hoạt động tinh luyện đường. Trước năm 1920, Việt Nam chủ yếu bán đường thô của các xưởng ép mía thủ công sang Hồng Kông nhập khẩu đường trắng cho tiêu dùng trong nước từ Indonesia Pháp. Trong lĩnh vực tinh chế đường, Công ty Tinh luyện Đường Đông Dương (Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine) được thành lập vào năm 1923, được xem mạnh nhất với số vốn ban đầu lên tới 10 triệu Franc. Công ty sở hữu hàng loạt nhà máy tinh luyện đường tại các vùng nguyên liệu mía lớn như Hiệp Hòa (Phú Yên) Tây Ninh. Xuất khẩu đường tinh luyện của Việt Nam tăng mạnh từ 4.000 tấn trong năm 1900 lên 15.500 tấn vào năm 192411.

Bên cạnh đó, nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác được mở rộng hoặc mới được mở ra trong những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất như sản xuất nước mắm, dầu ăn, chế biến muối, thuốc lá, phê, cao su… khi nhu cầu tiêu dùng tại khu vực Đông Dương trên thế giới tăng mạnh. Trong đó, một số sản phẩm do các công ty thuộc người Việt đã được biết đến rộng rãi trên thị trường trong ngoài nước như nước mắm Liên Thành của Liên Thành Thương Quán hoặc các loại dầu ăn của nhà sản dân tộc Trương Văn Bền.

Sự kiện nhân chứng lịch sử
bông Ba
Năm 1928, ông Trương Văn Bền mở công ty làm bông từ dầu nông sản với tên gọi Trương Văn Bền các con - Dầu bông Việt Nam ((Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam) tại Chợ Lớn. Tên sản phẩm được đặt bông Việt Nam với ý nghĩa bông của người Việt làm cho người Việt các quảng cáo về bông của hãng thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài bông của Việt Nam”. Sản phẩm được in nổi hình đầu người phụ nữ nên sau này người tiêu dùng quen gọi bông Ba.

Ông Trương Văn Bền không chỉ đưa sản phẩm bông đến các triển lãm thương mại còn đưa nhãn hiệu bông vào những loại hình nghệ thuật được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát... gây ấn tượng đến các tầng lớp trong hội từ giới bình dân đến trí thức. Với chất lượng tốt, giá cả phải chăng, sản phẩm bông Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi trong nước còn được bán khắp ba nước Đông Dương, cạnh tranh mạnh với bông nhập khẩu Marseille của Pháp đang thống lĩnh thị trường. Đến những năm 1940, nhà máy của ông Trương Văn Bền sản xuất ra khoảng 600 tấn bông 10 tấn glycerine, trở thành một trong những doanh nghiệp hóa mỹ phẩm quan trọng nhất tại khu vực Đông Dương.


11. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.

Sản xuất bia một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam. Năm 1875, ông Victor Larue - một quan hàng hải Pháp giải ngũ đã thành lập một xưởng bia nhỏ tại Sài Gòn. Xưởng bia này dần phát triển thành hãng lớn với tên gọi Hãng Bia Nước đá Đông Dương (Brasseries Glacières d’Indochine), chuyên sản xuất bia, nước giải khát nước đá vào năm 1927. Hãng bia nước đá Đông Dương thiết lập hàng loạt nhà máy sản xuất nước giải khát đá tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Nội, Hải Phòng, Cần Thơ PhnomPenh (Campuchia).

Tại Nội, xưởng bia đầu tiên công suất 150 lít bia/ngày được thành lập vào năm 1890 bởi Alfred Hommel; đến năm 1892, Công ty Bia Hommel (Société de la Brasserie Hommel) được hình thành. Sản phẩm bia của công ty dần được tiêu thụ rộng rãi trên toàn bộ xứ Bắc Kỳ, phía Bắc xứ Trung Kỳ Lào. Sức tiêu thụ bia gia tăng đã thúc đẩy công ty mở xưởng bia thứ 2 cũng tại Nội, nâng tổng công suất thiết kế lên mức 400.000 lít/năm vào năm 1908 đạt tới 2.000.000 lít/năm vào năm 1922. Đến năm 1928, Hãng Bia Nước đá Đông Dương dần thâu tóm Công ty Bia Hommel đạt vị thế độc quyền trong việc sản xuất bia, nước giải khát nước đá tại Đông Dương. Khác với rượu được tiêu thụ rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng, sản phẩm bia chủ yếu phục vụ người châu Âu tầng lớp trung lưu người bản xứ các khu đô thị, thị trấn lớn tại Đông Dương.

Những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, người Pháp bắt đầu quan tâm đến hoạt động tinh luyện đường. Trước năm 1920, Việt Nam chủ yếu bán đường thô của các xưởng ép mía thủ công sang Hồng Kông nhập khẩu đường trắng cho tiêu dùng trong nước từ Indonesia Pháp. Trong lĩnh vực tinh chế đường, Công ty Tinh luyện Đường Đông Dương (Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine) được thành lập vào năm 1923, được xem mạnh nhất với số vốn ban đầu lên tới 10 triệu Franc. Công ty sở hữu hàng loạt nhà máy tinh luyện đường tại các vùng nguyên liệu mía lớn như Hiệp Hòa (Phú Yên) Tây Ninh. Xuất khẩu đường tinh luyện của Việt Nam tăng mạnh từ 4.000 tấn trong năm 1900 lên 15.500 tấn vào năm 192411.

Bên cạnh đó, nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác được mở rộng hoặc mới được mở ra trong những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất như sản xuất nước mắm, dầu ăn, chế biến muối, thuốc lá, phê, cao su… khi nhu cầu tiêu dùng tại khu vực Đông Dương trên thế giới tăng mạnh. Trong đó, một số sản phẩm do các công ty thuộc người Việt đã được biết đến rộng rãi trên thị trường trong ngoài nước như nước mắm Liên Thành của Liên Thành Thương Quán hoặc các loại dầu ăn của nhà sản dân tộc Trương Văn Bền.

Sự kiện nhân chứng lịch sử
bông Ba
Năm 1928, ông Trương Văn Bền mở công ty làm bông từ dầu nông sản với tên gọi Trương Văn Bền các con - Dầu bông Việt Nam ((Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam) tại Chợ Lớn. Tên sản phẩm được đặt bông Việt Nam với ý nghĩa bông của người Việt làm cho người Việt các quảng cáo về bông của hãng thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài bông của Việt Nam”. Sản phẩm được in nổi hình đầu người phụ nữ nên sau này người tiêu dùng quen gọi bông Ba.

Ông Trương Văn Bền không chỉ đưa sản phẩm bông đến các triển lãm thương mại còn đưa nhãn hiệu bông vào những loại hình nghệ thuật được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát... gây ấn tượng đến các tầng lớp trong hội từ giới bình dân đến trí thức. Với chất lượng tốt, giá cả phải chăng, sản phẩm bông Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi trong nước còn được bán khắp ba nước Đông Dương, cạnh tranh mạnh với bông nhập khẩu Marseille của Pháp đang thống lĩnh thị trường. Đến những năm 1940, nhà máy của ông Trương Văn Bền sản xuất ra khoảng 600 tấn bông 10 tấn glycerine, trở thành một trong những doanh nghiệp hóa mỹ phẩm quan trọng nhất tại khu vực Đông Dương.


11. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.

Công nghiệp chế biến khác

Công nghiệp chế biến tại Việt Nam thời kỳ thuộc địa chủ yếu xoay quanh hoạt động chế biến thực phẩm, chế biến bông sợi, dệt và chế biến gỗ.
Chế biến thực phẩm
Xay xát và chế biến gạo phục vụ xuất khẩu chiếm vị trí quan trọng nhất trong công nghiệp chế biến thực phẩm và xuất hiện ngay sau khi thực dân Pháp chiếm được Nam Kỳ do hoạt động này đem lại nguồn lợi nhuận nhanh chóng, hấp dẫn.

Khu vực Chợ Lớn (Sài Gòn ngày nay) đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động xay xát, phân loại, đánh bóng và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nhà máy xay xát gạo đầu tiên cũng được xây dựng tại Chợ Lớn vào năm 1870. Đầu những năm 1900, người Pháp đẩy mạnh việc nạo vét sông, đào kênh mới tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm phục vụ giao thông và khai phá đất hoang trồng lúa xuất khẩu, giúp hoạt động xuất khẩu gạo phát triển nhanh chóng. Khối lượng gạo xuất khẩu tăng từ 0,56 triệu tấn trong năm 1890 lên gần gấp 3 lần, đạt 1,4 triệu tấn vào năm 1907, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới thời kỳ này. Kéo theo đó là sự hình thành thêm các trung tâm thu mua, xay xát lúa gạo quy mô tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Bảy Ngàn, Vị Thanh, Cái Răng, trong đó lớn nhất là Cái Răng. Đồng thời, hoạt động canh tác lúa tại khu vực Nam Kỳ chuyển từ sản xuất để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và chỉ xuất khẩu một phần không đáng kể sang hình thức sản xuất nông sản hàng hóa, canh tác quy mô lớn nhằm chuyên phục vụ nhu cầu xuất khẩu.

Một số nhà máy xay xát gạo cũng được thiết lập tại Hải Phòng và Đà Nẵng nhằm phục vụ nhu cầu xuất khẩu gạo của xứ Bắc Kỳ và xứ Trung Kỳ. Công nghiệp xay xát gạo đặc biệt phát triển mạnh trong những năm 1920 sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc do nhu cầu xuất khẩu gạo tăng cao. Chỉ riêng khu vực Chợ Lớn, số nhà máy xay xát đã tăng từ 46 cơ sở trong năm 1925 lên 75 cơ sở vào năm 1929 với năng lực xử lý trung bình đạt trên 7.600 tấn gạo/ngày10. Đi kèm với sự phát triển của ngành xay xát lúa gạo là sự hình thành các nhà máy dệt bao đay, sửa chữa máy móc, tàu vận chuyển gạo xuất khẩu.

Sản xuất rượu là nghề truyền thống của người Việt Nam nhưng dưới thời chính quyền thuộc địa, hoạt động nấu rượu trong dân chúng bị nghiêm cấm và chỉ các cơ sở sản xuất rượu được cấp phép mới được hoạt động nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách. Vào năm 1898, Nhà máy Rượu Hà Nội thuộc Công ty Rượu Đông Dương (Société française des distilleries de l’Indochine) được đưa vào hoạt động với kỹ thuật chưng cất hiện đại và quy mô lớn nhất Đông Dương.

Từ năm 1903 - 1933, Công ty Rượu Đông Dương (Société française des distilleries de l’Indochine) và Công ty Rượu Bắc Kỳ (Société des distilleries du Tonkin) được độc quyền sản xuất rượu và chính quyền thuộc địa đẩy mạnh việc kiểm soát hoạt động nấu rượu truyền thống của dân chúng, khiến hoạt động nấu rượu của nhiều làng nghề nổi tiếng trên cả nước lụi tàn. Các nhà máy sản xuất rượu thuộc hai công ty này được xây dựng tại nhiều tỉnh, thành khác ngoài Hà Nội như Hải Phòng, Nam Định, Chợ Lớn.

Đến những năm đầu 1930, dưới áp lực của dư luận và sự đấu tranh của một số nhà tư sản Việt Nam, chính quyền thuộc địa tuy không bãi bỏ chế độ độc quyền sản xuất rượu nhưng cho phép người Việt được tham gia sản xuất rượu.

Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Rượu Văn Điển
Ngay sau khi chính quyền thuộc địa cho phép người Việt tham gia sản xuất rượu, nhà tư sản Đỗ Hữu Thức đại diện cho một nhóm các nhà đầu tư người Việt đứng ra thành lập Nhà máy Rượu Văn Điển vào năm 1933 tại Hà Nội. Nhà máy sử dụng thiết bị hiện đại tương đương với các hãng rượu người Pháp, sử dụng tới 600 nhân công. Bằng việc kêu gọi tinh thần dân tộc “Người Việt ủng hộ người Việt” trong kinh doanh, sản phẩm được trình bày đẹp và hình thức quảng bá gần gũi với người Việt, sản phẩm của Nhà máy Rượu Văn Điển dần được tiêu thụ mạnh và cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm của các nhà máy rượu do người Pháp điều hành.

ruou Bài hát quảng cáo Rượu Văn Điển do nhà thơ Tản Đà viết đăng trên
Báo Phong Hóa (số ngày 21/9/1934)

10. Martin J.Murray. (1980). The Development of Capitalism in Colonial Indochina (1870 - 1940). Berkeley and Los Angeles: University of California Press.

Tiểu thủ công nghiệp

Quá trình khai thác thuộc địa cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp nhìn chung không ảnh hưởng quá nhiều đến các ngành thủ công nghiệp tại Việt Nam. Mặc dù một số nghề truyền thống như nấu rượu, làm muối bị chế độ độc quyền của chính quyền thuộc địa làm cho tê liệt nhưng nhiều ngành như nghề nuôi tằm, ươm tơ, gốm sứ, đồ mỹ nghệ chạm khảm, sơn mài… có điều kiện phát triển tốt hơn.

Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mới ra đời theo nhu cầu xã hội như các sản phẩm giày dép da, đồ thủy tinh,… Đáng chú ý, nhờ nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng thông qua tiếp cận các kỹ thuật sản xuất mới, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của người Việt đã dần thay thế các mặt hàng nhập từ Trung Quốc vốn trước chiếm vị thế độc quyền trên thị trường. Sức sống và sự phát triển của nhiều nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa chủ yếu có hai lý do:

Thứ nhất, chính quyền thuộc địa và giới thương nhân người Pháp đã sớm nhận thấy các sản phẩm thủ công nghiệp của Việt Nam với chất lượng tốt và giá rẻ sẽ đem lại nguồn lợi lớn nên có chủ trương phát huy các ưu thế của thủ công nghiệp bản địa trên thị trường Pháp và thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc quảng bá các sản phẩm thủ công tinh xảo của xứ thuộc địa sẽ giúp nâng cao vị thế của Chính phủ Pháp đối với công chúng nước này và các quốc gia khác. Thông qua các Hội chợ Đấu xảo tại Pháp và ở các nước khác, nhiều mặt hàng như tơ lụa, mây đan, sơn mài, thêu… của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh trên thị trường quốc tế, mở ra nguồn lợi lớn cho người Pháp. Năm 1917, Sở Kinh tế Đông Dương đã được thành lập tại Paris (Pháp), một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này là giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Liên bang Đông Dương đến thị trường Pháp và các nước khác.

Thứ hai, chính quyền thuộc địa không có chủ trương phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi đó, giá các sản phẩm hàng tiêu dùng nhập khẩu quá cao so với đại bộ phận dân chúng nên các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp vẫn còn thị trường. Khi các hoạt động kinh tế được khởi sắc và điều kiện giao thương thuận lợi cũng giúp nhu cầu về các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trên thị trường nội địa tăng lên.

Các mạng lưới sản xuất đồ thủ công tinh xảo trong khu phố cổ của Hà Nội, các làng nghề truyền thống hàng trăm năm tuổi với lực lượng thợ thủ công lành nghề, siêng năng ở Nam Định, Hà Đông, Bắc Ninh… đã khiến người Pháp sớm tin rằng xứ Bắc Kỳ là nơi có nhiều tiềm năng nhất tại Việt Nam và dành sự quan tâm đặc biệt để đẩy mạnh phát triển các mặt hàng thủ công bản địa tại đây.

Điển hình, Công ty Thương mại châu Á (Société Commerciale Asiatique) được người Pháp thành lập năm 1923, trụ sở tại Nam Định, chuyên xuất khẩu các sản phẩm thủ công sang châu Âu và Hoa Kỳ như tinh dầu các loại, chiếu, sản phẩm mây tre đan. Ngoài việc tuyển dụng hàng nghìn công nhân làm việc trực tiếp tại các xưởng thuộc điều hành của công ty tại Nam Định, công ty còn thu mua sản phẩm của hàng nghìn thợ thủ công tại khu vực Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Công ty Thương mại châu Á buộc phải ngưng toàn bộ các đơn hàng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sa thải phần lớn nhân công.

trong dau tam (Nguồn: Tư bản Pháp với thủ công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37,
năm 1958)

Trong số các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, người Pháp chú trọng phát triển nhóm sản phẩm lụa tơ tằm, do đây là những sản phẩm có sức tiêu thụ “gần như vô hạn tại chính quốc (Pháp), sau khi chế tác còn có sức tiêu thụ rất lớn nữa tại Đông Á”12. Lụa Vạn Phúc (Hà Nội ngày nay) được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo nhất Đông Dương, vào các năm 1931 và 1932 từng được chọn tham dự các Hội chợ Đấu xảo lớn ở Marseille và Paris (Pháp). Chính quyền thuộc địa đã miễn, giảm thuế cho hoạt động trồng dâu, thành lập các trạm thí nghiệm chọn, lai tạo giống dâu và giống tằm với kỹ thuật tiên tiến, phổ biến kỹ thuật đến người nuôi. Các tiến bộ cơ khí và sản xuất hiện đại đã được ứng dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất. Diện tích canh tác dâu và sản lượng kén, tơ tăng mạnh qua các năm, đồng thời doanh số xuất khẩu tơ lụa tăng cao đã phản ánh sự phát triển của ngành nghề này.

Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt hiện đại đã thúc đẩy diện tích trồng bông được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào của các nhà máy dệt. Đồng thời, các cơ sở dệt vải, kéo sợi thủ công trước đây được hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, gia công cho các nhà máy bông sợi. Một số thợ thủ công Việt tích lũy được vốn đã thuê thợ, mở xưởng hiện đại để sản xuất sản phẩm, trực tiếp bán ra thị trường.

Đối với nghề gốm, sứ thủ công, các thợ thủ công đã đẩy mạnh cải tiến chất lượng, kỹ thuật sản xuất, và sử dụng những chất liệu, họa tiết đặc trưng của địa phương để cải thiện mỹ thuật đã cạnh tranh mạnh với các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản và sản phẩm gốm sứ công nghiệp. Một số sản phẩm gốm sứ có chất lượng cao như men rạn và sứ xanh từ các làng nghề truyền thống tại Bình Định, Quảng Ngãi, Móng Cái (Quảng Ninh)... được lựa chọn xuất hiện trong nhiều cuộc triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước, thu hút sự quan tâm lớn của giới thương nhân và người tiêu dùng.

Tuy nhiên, giống như các lĩnh vực kinh tế khác, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế trên thế giới vào những năm 1930 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhiều nghề thủ công tại Việt Nam trong giai đoạn sau này. Do không tiêu thụ được sản phẩm, hàng loạt xưởng dệt, đan lát, gốm sứ… phải đóng cửa. Trong đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm lấy tơ còn chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ lụa nhân tạo khi mặt hàng này được đẩy mạnh nhập khẩu vào Đông Dương sau năm 1930. Giá tơ sống sụt giảm mạnh khiến nhiều làng nghề chuyên nuôi tằm lấy tơ bỏ nghề, đặc biệt là tại xứ Bắc Kỳ.

Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Thợ thủ công
Toàn quyền Paul Doumer nhớ lại trong hồi ký L’Indo-Chine française (Souvenirs) (tạm dịch: Xứ Đông Dương):“Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ”.


12. Paul Doumer. (1905). L’Indo-Chine française (Souvenirs). Paris: Vuibert et Nony.

Danh mục

Tùy chỉnh