Sản xuất bia là một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam. Năm 1875, ông Victor Larue - một sĩ quan hàng hải Pháp giải ngũ đã thành lập một xưởng bia nhỏ tại Sài Gòn. Xưởng bia này dần phát triển thành hãng lớn với tên gọi Hãng Bia và Nước đá Đông Dương (Brasseries Glacières d’Indochine), chuyên sản xuất bia, nước giải khát và nước đá vào năm 1927. Hãng bia và nước đá Đông Dương thiết lập hàng loạt nhà máy sản xuất nước giải khát và đá tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ và PhnomPenh (Campuchia).
Tại Hà Nội, xưởng bia đầu tiên có công suất 150 lít bia/ngày được thành lập vào năm 1890 bởi Alfred Hommel; đến năm 1892, Công ty Bia Hommel (Société de la Brasserie Hommel) được hình thành. Sản phẩm bia của công ty dần được tiêu thụ rộng rãi trên toàn bộ xứ Bắc Kỳ, phía Bắc xứ Trung Kỳ và Lào. Sức tiêu thụ bia gia tăng đã thúc đẩy công ty mở xưởng bia thứ 2 cũng tại Hà Nội, nâng tổng công suất thiết kế lên mức 400.000 lít/năm vào năm 1908 và đạt tới 2.000.000 lít/năm vào năm 1922. Đến năm 1928, Hãng Bia và Nước đá Đông Dương dần thâu tóm Công ty Bia Hommel và đạt vị thế độc quyền trong việc sản xuất bia, nước giải khát và nước đá tại Đông Dương. Khác với rượu được tiêu thụ rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng, sản phẩm bia chủ yếu phục vụ người châu Âu và tầng lớp trung lưu người bản xứ ở các khu đô thị, thị trấn lớn tại Đông Dương.
Những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, người Pháp bắt đầu quan tâm đến hoạt động tinh luyện đường. Trước năm 1920, Việt Nam chủ yếu bán đường thô của các xưởng ép mía thủ công sang Hồng Kông và nhập khẩu đường trắng cho tiêu dùng trong nước từ Indonesia và Pháp. Trong lĩnh vực tinh chế đường, Công ty Tinh luyện Đường Đông Dương (Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine) được thành lập vào năm 1923, được xem là mạnh nhất với số vốn ban đầu lên tới 10 triệu Franc. Công ty sở hữu hàng loạt nhà máy tinh luyện đường tại các vùng nguyên liệu mía lớn như Hiệp Hòa (Phú Yên) và Tây Ninh. Xuất khẩu đường tinh luyện của Việt Nam tăng mạnh từ 4.000 tấn trong năm 1900 lên 15.500 tấn vào năm 192411.
Bên cạnh đó, nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác được mở rộng hoặc mới được mở ra trong những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất như sản xuất nước mắm, dầu ăn, chế biến muối, thuốc lá, cà phê, cao su… khi nhu cầu tiêu dùng tại khu vực Đông Dương và trên thế giới tăng mạnh. Trong đó, một số sản phẩm do các công ty thuộc người Việt đã được biết đến rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước như nước mắm Liên Thành của Liên Thành Thương Quán hoặc các loại dầu ăn của nhà tư sản dân tộc Trương Văn Bền.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Xà bông cô Ba
Năm 1928, ông Trương Văn Bền mở công ty làm xà bông từ dầu nông sản với tên gọi Trương Văn Bền và các con - Dầu và Xà bông Việt Nam ((Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam) tại Chợ Lớn. Tên sản phẩm được đặt là xà bông Việt Nam với ý nghĩa xà bông của người Việt làm cho người Việt và các quảng cáo về xà bông của hãng thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”. Sản phẩm được in nổi hình đầu người phụ nữ nên sau này người tiêu dùng quen gọi là xà bông Cô Ba.
Ông Trương Văn Bền không chỉ đưa sản phẩm xà bông đến các triển lãm thương mại mà còn đưa nhãn hiệu xà bông vào những loại hình nghệ thuật được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát... gây ấn tượng đến các tầng lớp trong xã hội từ giới bình dân đến trí thức. Với chất lượng tốt, giá cả phải chăng, sản phẩm xà bông Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi trong nước mà còn được bán khắp ba nước Đông Dương, cạnh tranh mạnh với xà bông nhập khẩu Marseille của Pháp đang thống lĩnh thị trường. Đến những năm 1940, nhà máy của ông Trương Văn Bền sản xuất ra khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine, trở thành một trong những doanh nghiệp hóa mỹ phẩm quan trọng nhất tại khu vực Đông Dương.
11. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.
Sản xuất bia là một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam. Năm 1875, ông Victor Larue - một sĩ quan hàng hải Pháp giải ngũ đã thành lập một xưởng bia nhỏ tại Sài Gòn. Xưởng bia này dần phát triển thành hãng lớn với tên gọi Hãng Bia và Nước đá Đông Dương (Brasseries Glacières d’Indochine), chuyên sản xuất bia, nước giải khát và nước đá vào năm 1927. Hãng bia và nước đá Đông Dương thiết lập hàng loạt nhà máy sản xuất nước giải khát và đá tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ và PhnomPenh (Campuchia).
Tại Hà Nội, xưởng bia đầu tiên có công suất 150 lít bia/ngày được thành lập vào năm 1890 bởi Alfred Hommel; đến năm 1892, Công ty Bia Hommel (Société de la Brasserie Hommel) được hình thành. Sản phẩm bia của công ty dần được tiêu thụ rộng rãi trên toàn bộ xứ Bắc Kỳ, phía Bắc xứ Trung Kỳ và Lào. Sức tiêu thụ bia gia tăng đã thúc đẩy công ty mở xưởng bia thứ 2 cũng tại Hà Nội, nâng tổng công suất thiết kế lên mức 400.000 lít/năm vào năm 1908 và đạt tới 2.000.000 lít/năm vào năm 1922. Đến năm 1928, Hãng Bia và Nước đá Đông Dương dần thâu tóm Công ty Bia Hommel và đạt vị thế độc quyền trong việc sản xuất bia, nước giải khát và nước đá tại Đông Dương. Khác với rượu được tiêu thụ rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng, sản phẩm bia chủ yếu phục vụ người châu Âu và tầng lớp trung lưu người bản xứ ở các khu đô thị, thị trấn lớn tại Đông Dương.
Những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, người Pháp bắt đầu quan tâm đến hoạt động tinh luyện đường. Trước năm 1920, Việt Nam chủ yếu bán đường thô của các xưởng ép mía thủ công sang Hồng Kông và nhập khẩu đường trắng cho tiêu dùng trong nước từ Indonesia và Pháp. Trong lĩnh vực tinh chế đường, Công ty Tinh luyện Đường Đông Dương (Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine) được thành lập vào năm 1923, được xem là mạnh nhất với số vốn ban đầu lên tới 10 triệu Franc. Công ty sở hữu hàng loạt nhà máy tinh luyện đường tại các vùng nguyên liệu mía lớn như Hiệp Hòa (Phú Yên) và Tây Ninh. Xuất khẩu đường tinh luyện của Việt Nam tăng mạnh từ 4.000 tấn trong năm 1900 lên 15.500 tấn vào năm 192411.
Bên cạnh đó, nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác được mở rộng hoặc mới được mở ra trong những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất như sản xuất nước mắm, dầu ăn, chế biến muối, thuốc lá, cà phê, cao su… khi nhu cầu tiêu dùng tại khu vực Đông Dương và trên thế giới tăng mạnh. Trong đó, một số sản phẩm do các công ty thuộc người Việt đã được biết đến rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước như nước mắm Liên Thành của Liên Thành Thương Quán hoặc các loại dầu ăn của nhà tư sản dân tộc Trương Văn Bền.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Xà bông cô Ba
Năm 1928, ông Trương Văn Bền mở công ty làm xà bông từ dầu nông sản với tên gọi Trương Văn Bền và các con - Dầu và Xà bông Việt Nam ((Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam) tại Chợ Lớn. Tên sản phẩm được đặt là xà bông Việt Nam với ý nghĩa xà bông của người Việt làm cho người Việt và các quảng cáo về xà bông của hãng thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”. Sản phẩm được in nổi hình đầu người phụ nữ nên sau này người tiêu dùng quen gọi là xà bông Cô Ba.
Ông Trương Văn Bền không chỉ đưa sản phẩm xà bông đến các triển lãm thương mại mà còn đưa nhãn hiệu xà bông vào những loại hình nghệ thuật được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát... gây ấn tượng đến các tầng lớp trong xã hội từ giới bình dân đến trí thức. Với chất lượng tốt, giá cả phải chăng, sản phẩm xà bông Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi trong nước mà còn được bán khắp ba nước Đông Dương, cạnh tranh mạnh với xà bông nhập khẩu Marseille của Pháp đang thống lĩnh thị trường. Đến những năm 1940, nhà máy của ông Trương Văn Bền sản xuất ra khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine, trở thành một trong những doanh nghiệp hóa mỹ phẩm quan trọng nhất tại khu vực Đông Dương.
11. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.
Công nghiệp chế biến khác
Công nghiệp chế biến tại Việt Nam thời kỳ thuộc địa chủ yếu xoay quanh hoạt động chế biến thực phẩm, chế biến bông sợi, dệt và chế biến gỗ.
Chế biến thực phẩm
Xay xát và chế biến gạo phục vụ xuất khẩu chiếm vị trí quan trọng nhất trong công nghiệp chế biến thực phẩm và xuất hiện ngay sau khi thực dân Pháp chiếm được Nam Kỳ do hoạt động này đem lại nguồn lợi nhuận nhanh chóng, hấp dẫn.
Khu vực Chợ Lớn (Sài Gòn ngày nay) đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động xay xát, phân loại, đánh bóng và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nhà máy xay xát gạo đầu tiên cũng được xây dựng tại Chợ Lớn vào năm 1870. Đầu những năm 1900, người Pháp đẩy mạnh việc nạo vét sông, đào kênh mới tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm phục vụ giao thông và khai phá đất hoang trồng lúa xuất khẩu, giúp hoạt động xuất khẩu gạo phát triển nhanh chóng. Khối lượng gạo xuất khẩu tăng từ 0,56 triệu tấn trong năm 1890 lên gần gấp 3 lần, đạt 1,4 triệu tấn vào năm 1907, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới thời kỳ này. Kéo theo đó là sự hình thành thêm các trung tâm thu mua, xay xát lúa gạo quy mô tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Bảy Ngàn, Vị Thanh, Cái Răng, trong đó lớn nhất là Cái Răng. Đồng thời, hoạt động canh tác lúa tại khu vực Nam Kỳ chuyển từ sản xuất để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và chỉ xuất khẩu một phần không đáng kể sang hình thức sản xuất nông sản hàng hóa, canh tác quy mô lớn nhằm chuyên phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Một số nhà máy xay xát gạo cũng được thiết lập tại Hải Phòng và Đà Nẵng nhằm phục vụ nhu cầu xuất khẩu gạo của xứ Bắc Kỳ và xứ Trung Kỳ. Công nghiệp xay xát gạo đặc biệt phát triển mạnh trong những năm 1920 sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc do nhu cầu xuất khẩu gạo tăng cao. Chỉ riêng khu vực Chợ Lớn, số nhà máy xay xát đã tăng từ 46 cơ sở trong năm 1925 lên 75 cơ sở vào năm 1929 với năng lực xử lý trung bình đạt trên 7.600 tấn gạo/ngày10. Đi kèm với sự phát triển của ngành xay xát lúa gạo là sự hình thành các nhà máy dệt bao đay, sửa chữa máy móc, tàu vận chuyển gạo xuất khẩu.
Sản xuất rượu là nghề truyền thống của người Việt Nam nhưng dưới thời chính quyền thuộc địa, hoạt động nấu rượu trong dân chúng bị nghiêm cấm và chỉ các cơ sở sản xuất rượu được cấp phép mới được hoạt động nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách. Vào năm 1898, Nhà máy Rượu Hà Nội thuộc Công ty Rượu Đông Dương (Société française des distilleries de l’Indochine) được đưa vào hoạt động với kỹ thuật chưng cất hiện đại và quy mô lớn nhất Đông Dương.
Từ năm 1903 - 1933, Công ty Rượu Đông Dương (Société française des distilleries de l’Indochine) và Công ty Rượu Bắc Kỳ (Société des distilleries du Tonkin) được độc quyền sản xuất rượu và chính quyền thuộc địa đẩy mạnh việc kiểm soát hoạt động nấu rượu truyền thống của dân chúng, khiến hoạt động nấu rượu của nhiều làng nghề nổi tiếng trên cả nước lụi tàn. Các nhà máy sản xuất rượu thuộc hai công ty này được xây dựng tại nhiều tỉnh, thành khác ngoài Hà Nội như Hải Phòng, Nam Định, Chợ Lớn.
Đến những năm đầu 1930, dưới áp lực của dư luận và sự đấu tranh của một số nhà tư sản Việt Nam, chính quyền thuộc địa tuy không bãi bỏ chế độ độc quyền sản xuất rượu nhưng cho phép người Việt được tham gia sản xuất rượu.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Rượu Văn Điển
Ngay sau khi chính quyền thuộc địa cho phép người Việt tham gia sản xuất rượu, nhà tư sản Đỗ Hữu Thức đại diện cho một nhóm các nhà đầu tư người Việt đứng ra thành lập Nhà máy Rượu Văn Điển vào năm 1933 tại Hà Nội. Nhà máy sử dụng thiết bị hiện đại tương đương với các hãng rượu người Pháp, sử dụng tới 600 nhân công. Bằng việc kêu gọi tinh thần dân tộc “Người Việt ủng hộ người Việt” trong kinh doanh, sản phẩm được trình bày đẹp và hình thức quảng bá gần gũi với người Việt, sản phẩm của Nhà máy Rượu Văn Điển dần được tiêu thụ mạnh và cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm của các nhà máy rượu do người Pháp điều hành.
Báo Phong Hóa (số ngày 21/9/1934)
10. Martin J.Murray. (1980). The Development of Capitalism in Colonial Indochina (1870 - 1940). Berkeley and Los Angeles: University of California Press.