Các mỏ kim loại như đồng, sắt, chì, bạc crôm cũng như các mỏ khoáng sản phi kim loại như kali nitrat (diêm tiêu), graphite (than chì), apatit… cũng sớm được người Pháp thăm khai thác, nhưng quy nhỏ.

Hoạt động khai khoáng bùng nổ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918) khi nhu cầu giá kim loại công nghiệp trên thị trường quốc tế tăng vọt. Bên cạnh đó, cuộc khai thác thuộc địa lần 2 do Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut khởi xướng cũng đặt ra ưu tiên hướng dòng vốn đầu của bản Pháp vào hoạt động khai khoáng.

Các loại khoáng sản đóng vai trò quan trọng đối với việc phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh. Các khu mỏ được mở rộng khai thác nhiều khu mỏ mới trên cả nước được đưa vào hoạt động, số công ty khai khoáng được thành lập mới gia tăng mạnh, đặc biệt trong giai đoạn 1926 - 1929.

Sản lượng khai thác quặng kẽm tại nước ta tăng nhanh từ mức 800 tấn vào năm 1906 lên 59.000 tấn vào năm 1929. Đồng thời, hoạt động luyện kim bắt đầu được hình thành trong giai đoạn này khi một số nhà máy tuyển quặng được xây dựng nhằm tinh chế quặng thành các bán thành phẩm hoặc thành phẩm vốn giá trị xuất khẩu cao. Điển hình, Nhà máy Kẽm Quảng Yên với công suất thiết kế lên đến 6.000 tấn kẽm thỏi/năm đã được Công ty Khai thác Luyện kim Đông Dương (Société minière et métallurgique de l’Indo-Chine) đưa vào vận hành trong năm 1924 tại thị Quảng Yên (Quảng Ninh). Đây được xem công trình công nghiệp nặng hiện đại nhất khu vực Đông Dương thời kỳ này, khi trang bị nhiều thiết bị máy móc tiên tiến như cần cẩu tải trọng lớn, đốt tách quặng, nhà máy điện riêng... Sản lượng kẽm thành phẩm đạt 6.104 tấn vào năm 1940 so với mức 72 tấn hồi năm 1924.

Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong những năm 1930, giá các loại hàng hóa nguyên liệu thô trên thị trường quốc tế lao dốc đã khiến hoạt động khai thác kẽm nói riêng, khai khoáng tại Việt Nam nói chung suy giảm mạnh đến sau năm 1938 mới bắt đầu phục hồi lại. Trong công nghiệp khai thác mỏ, chỉ hoạt động khai thác thiếc wolfram không chịu ảnh hưởng đáng kể do các nước khai thác thiếc lớn nhất thế giới thời kỳ này (Bolivia, Malaysia, Indonesia Nigeria) đạt thỏa thuận cắt giảm mạnh sản lượng khai thác để giữ giá quặng.

kem quang yen Nhà máy Kẽm Quảng Yên năm 1930
(Ảnh: Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine, avril 1934, p.127)

Tương tự như than, phần lớn lượng quặng kim loại công nghiệp khai thác đều được xuất khẩu. Tính đến năm 1939, Đông Dương (chủ yếu Việt Nam) đứng thứ 6 trong nhóm các nước xuất khẩu quặng thiếc lớn nhất thế giới, đứng thứ 11 trong số các quốc gia xuất khẩu kẽm tinh chế thứ 23 về xuất khẩu quặng sắt.

thể thấy diễn biến phát triển của ngành công nghiệp khai thác mỏ tại Việt Nam dưới thời chính quyền thuộc địa thực dân Pháp gắn liền với tình hình tiêu thụ trên thị trường thế giới cũng như tình hình chiến sự tại Đông Dương. Hoạt động khai khoáng bùng nổ trong những năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc đạt đỉnh cao vào năm 1929. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến các hoạt động khai mỏ suy giảm mạnh chỉ phục hồi trở lại vào cuối những năm 1930. Nhưng không lâu sau đó, Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945) bùng nổ sự khống chế của phát xít Nhật đối với thực dân Pháp tại Đông Dương đã khiến ngành công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam lại bước vào suy thoái.

quang kem (Nguồn: Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940, Gouvernement général de l’Indochine,
năm 1941).

Các mỏ kim loại như đồng, sắt, chì, bạc crôm cũng như các mỏ khoáng sản phi kim loại như kali nitrat (diêm tiêu), graphite (than chì), apatit… cũng sớm được người Pháp thăm khai thác, nhưng quy nhỏ.

Hoạt động khai khoáng bùng nổ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918) khi nhu cầu giá kim loại công nghiệp trên thị trường quốc tế tăng vọt. Bên cạnh đó, cuộc khai thác thuộc địa lần 2 do Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut khởi xướng cũng đặt ra ưu tiên hướng dòng vốn đầu của bản Pháp vào hoạt động khai khoáng.

Các loại khoáng sản đóng vai trò quan trọng đối với việc phục hồi nền kinh tế Pháp sau chiến tranh. Các khu mỏ được mở rộng khai thác nhiều khu mỏ mới trên cả nước được đưa vào hoạt động, số công ty khai khoáng được thành lập mới gia tăng mạnh, đặc biệt trong giai đoạn 1926 - 1929.

Sản lượng khai thác quặng kẽm tại nước ta tăng nhanh từ mức 800 tấn vào năm 1906 lên 59.000 tấn vào năm 1929. Đồng thời, hoạt động luyện kim bắt đầu được hình thành trong giai đoạn này khi một số nhà máy tuyển quặng được xây dựng nhằm tinh chế quặng thành các bán thành phẩm hoặc thành phẩm vốn giá trị xuất khẩu cao. Điển hình, Nhà máy Kẽm Quảng Yên với công suất thiết kế lên đến 6.000 tấn kẽm thỏi/năm đã được Công ty Khai thác Luyện kim Đông Dương (Société minière et métallurgique de l’Indo-Chine) đưa vào vận hành trong năm 1924 tại thị Quảng Yên (Quảng Ninh). Đây được xem công trình công nghiệp nặng hiện đại nhất khu vực Đông Dương thời kỳ này, khi trang bị nhiều thiết bị máy móc tiên tiến như cần cẩu tải trọng lớn, đốt tách quặng, nhà máy điện riêng... Sản lượng kẽm thành phẩm đạt 6.104 tấn vào năm 1940 so với mức 72 tấn hồi năm 1924.

Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong những năm 1930, giá các loại hàng hóa nguyên liệu thô trên thị trường quốc tế lao dốc đã khiến hoạt động khai thác kẽm nói riêng, khai khoáng tại Việt Nam nói chung suy giảm mạnh đến sau năm 1938 mới bắt đầu phục hồi lại. Trong công nghiệp khai thác mỏ, chỉ hoạt động khai thác thiếc wolfram không chịu ảnh hưởng đáng kể do các nước khai thác thiếc lớn nhất thế giới thời kỳ này (Bolivia, Malaysia, Indonesia Nigeria) đạt thỏa thuận cắt giảm mạnh sản lượng khai thác để giữ giá quặng.

kem quang yen Nhà máy Kẽm Quảng Yên năm 1930
(Ảnh: Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine, avril 1934, p.127)

Tương tự như than, phần lớn lượng quặng kim loại công nghiệp khai thác đều được xuất khẩu. Tính đến năm 1939, Đông Dương (chủ yếu Việt Nam) đứng thứ 6 trong nhóm các nước xuất khẩu quặng thiếc lớn nhất thế giới, đứng thứ 11 trong số các quốc gia xuất khẩu kẽm tinh chế thứ 23 về xuất khẩu quặng sắt.

thể thấy diễn biến phát triển của ngành công nghiệp khai thác mỏ tại Việt Nam dưới thời chính quyền thuộc địa thực dân Pháp gắn liền với tình hình tiêu thụ trên thị trường thế giới cũng như tình hình chiến sự tại Đông Dương. Hoạt động khai khoáng bùng nổ trong những năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc đạt đỉnh cao vào năm 1929. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến các hoạt động khai mỏ suy giảm mạnh chỉ phục hồi trở lại vào cuối những năm 1930. Nhưng không lâu sau đó, Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945) bùng nổ sự khống chế của phát xít Nhật đối với thực dân Pháp tại Đông Dương đã khiến ngành công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam lại bước vào suy thoái.

quang kem (Nguồn: Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940, Gouvernement général de l’Indochine,
năm 1941).

Công nghiệp khai khoáng

Một trong những mục tiêu của việc chiếm thuộc địa là tìm kiếm các loại tài nguyên khoáng sản. Do kỹ thuật thời kỳ này còn hạn chế nên hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản tại vùng Nam Kỳ của người Pháp không đạt nhiều kết quả. Chỉ đến khi thực dân Pháp bình định được xứ Bắc Kỳ với việc buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Quý Mùi2 vào tháng 8/1883 thì hoạt động khai khoáng mới thực sự bắt đầu với quy mô lớn. Công nghiệp khai khoáng, đặc biệt là hoạt động khai thác than, là nguồn thu ngân sách quan trọng đối với chính quyền thuộc địa tại Việt Nam.

Năm 1888, Công ty Than Bắc Kỳ (Société Francaise des charbonnages du Tonkin) được thành lập, với quyền khai thác một khu vực rộng lớn trải dài từ Mông Dương, Cẩm Phả, Hồng Gai đến Vàng Danh và Mạo Khê (Quảng Ninh). Đây là công ty khai mỏ đầu tiên tại Đông Dương và được xem là cơ sở công nghiệp có quy mô lớn đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động khai thác mỏ chủ yếu dựa vào sức người, lao động thủ công.

Dưới sự khuyến khích của chính quyền thuộc địa, hàng loạt công ty khai thác than mới được thành lập trong những năm sau đó, chủ yếu tập trung tại xứ Bắc Kỳ như Công ty Than Đông Triều (1916), Công ty Than Kế Bào (1912), Công ty Pannier & CIE (1917), Công ty Than Hạ Long - Đồng Đăng (1924), Công ty Than Ninh Bình (1926)… Chính quyền thuộc địa cũng đưa ra các quy định chặt chẽ về thể lệ thăm dò, xin khai thác, xin nhượng mỏ… nhằm tạo thế độc quyền cho các nhà khai thác người Pháp. Tuy nhiên, một số người Việt như thương nhân Nguyễn Văn Nhân hoặc nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi cũng đã thâm nhập được hoạt động khai thác than thông qua việc mua lại mỏ từ người Pháp.

Sản lượng khai thác than hàng năm gia tăng nhanh chóng từ khoảng 3.000 tấn trong năm 1890 lên hơn 500.000 tấn trong năm 1913 và đạt mức cao nhất 2.615.000 tấn vào năm 1939. Trong đó, Công ty Than Bắc Kỳ và Công ty Than Đông Triều đóng góp đến 90% tổng sản lượng than khai thác trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945) bùng nổ. Số lượng công nhân khai thác than cũng tăng mạnh lên đến hơn 55.000 người vào năm 1939. Vùng mỏ Quảng Ninh trở thành khu vực công nghiệp lớn và quan trọng hàng đầu ở Việt Nam và Liên bang Đông Dương3.

Phần lớn lượng than khai thác được dùng để xuất khẩu. Lượng than xuất khẩu của Việt Nam trong năm 1900 chỉ ở mức 194.288 tấn đã tăng lên mức cao kỷ lục 1.782.007 tấn vào năm 19394, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia xuất khẩu than lớn nhất thế giới thời kỳ này. Doanh thu xuất khẩu than chiếm trên dưới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành khai khoáng của Việt Nam trong giai đoạn 1908 - 1940.

Các thị trường xuất khẩu than chính gồm Trung Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản. Lượng than được chở về Pháp chiếm tỷ trọng nhỏ, từ 1% - 17% trong tổng sản lượng than khai thác được, tùy theo từng năm. Đến năm 1940, tỷ lệ than xuất khẩu vẫn chiếm tới trên 60% tổng sản lượng than khai thác được tại nước ta. Các hoạt động trong nước như sản xuất điện, vận tải đường sắt, đường thủy,… chỉ tiêu thụ khoảng 30% tổng sản lượng than khai thác hàng năm.

Bên cạnh than, người Pháp còn đẩy mạnh khai thác quặng kim loại công nghiệp, đặc biệt là kẽm và thiếc. Giá trị khai thác kẽm và thiếc chiếm khoảng 10% tổng giá trị toàn ngành khai khoáng của Pháp ở Đông Dương. Mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) được người Pháp tiến hành khai thác quy mô lớn vào năm 1902 với sự thành lập Công ty Mỏ thiếc Cao Bằng (Société des mines d’etain de Cao Bang). Các mỏ thiếc ở Tràng Đà (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc Kạn), Nguyên Bình (Cao Bằng) và một số mỏ kẽm, mỏ sắt, mỏ wolfram tại khu vực thượng du Bắc Kỳ cũng bắt đầu được đưa vào khai thác trong thời gian này.

ben tau hon gai Bến tàu Hòn Gai (Ảnh: Le génie civil, T. 42, no. 20, 14 mars 1903, p. 305)

bảng 1 - thay


2.Hay còn gọi là Hòa ước Harmand (Ban biên soạn).

3. Liên bang Đông Dương (hay còn gọi là Đông Dương) là lãnh thổ nằm dưới quyền cai trị của thực dân Pháp tại khu vực Đông Nam Á, gồm 6 xứ: Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ, Lào, Cao Miên (Campuchia), Quảng Châu Loan (thuộc Trung Quốc ngày nay), tồn tại từ năm 1887 đến năm 1945. (Ban biên soạn)

4. Jaehyun Jeoung. (2019). Exploitation minière et exploitation humaine: les charbonnages dans le Vietnam colonial, 1874 - 1945. (Doctoral dissertation, Université Sorbonne Paris Cité, Francais).

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng

Cùng với ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng được chính quyền thuộc địa khuyến khích phát triển ngay từ Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại Đông Dương cũng như nhu cầu về vật liệu xây dựng của các quốc gia trong khu vực. Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng chủ yếu tập trung tại xứ Bắc Kỳ do khu vực Nam Kỳ và Trung Kỳ không có nguồn cung ứng than thuận lợi.

Nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của Hải Phòng khi nằm gần các nguồn cung than, đá vôi, đất sét lớn và ưu thế vận tải đường sông lẫn đường biển, Công ty Xi măng Nhân tạo Portland Đông Dương (Société des Ciments Portland artificiels de l’Indochine) đã xây dựng tại đây nhà máy xi măng đầu tiên của Đông Dương vào năm 1899. Với công suất thiết kế ban đầu đạt 30.000 tấn xi măng và vôi tôi mỗi năm, nhà máy này được trang bị một phân xưởng điện riêng có công suất tới 12.500kW, hàng loạt xưởng cơ khí và hệ thống máy đóng bao đay hoặc bao giấy hiện đại. Đây được xem là công trình công nghiệp quan trọng bậc nhất của người Pháp tại Đông Dương. Hoạt động sản xuất của nhà máy liên tục được mở rộng qua các năm, đạt 235.000 tấn vào năm 19375 với gần 5.000 công nhân lao động…

Với chất lượng tương đương loại xi măng tốt nhất của châu Âu, xi măng Hải Phòng mang thương hiệu Rồng Xanh, Rồng Đỏ được tiêu thụ mạnh tại Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Madagascar… Tỷ lệ xi măng xuất khẩu trên tổng sản lượng xi măng của nhà máy đạt trên 50%. Công ty Xi măng Nhân tạo Portland Đông Dương cũng liên kết với một số công ty xi măng khác để mở rộng sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác khu vực quanh Hải Phòng và Huế.

Nếu việc sản xuất xi măng chỉ tập trung tại một số nhà máy quy mô lớn thì việc sản xuất gạch, ngói lại được phân tán tại nhiều nơi trên khắp Việt Nam với các nhà máy có công suất đa dạng. Hoạt động sản xuất gạch, ngói ở quy mô công nghiệp đầu tiên tại nước ta được đánh dấu bằng việc Nhà máy Gạch ngói Đông Dương (S.A.T.I.C) tại Hà Nội thuộc Công ty Gạch ngói Đông Dương (Société anonyme des tuileries de l’Indochine) đi vào hoạt động năm 1896. Nhờ được trang bị dây chuyền cơ khí hóa hiện đại vượt trội so với công nghệ thời kỳ này, công suất của nhà máy này lên mức 2 triệu viên gạch/năm vào năm 1900, đủ đáp ứng nhu cầu gạch xây dựng trên toàn khu vực Đông Dương. Một số nhà máy gạch khác tại Đáp Cầu, Hải Phòng, Biên Hòa… được thành lập trong những năm tiếp theo để đáp ứng nhu cầu xây dựng ở các khu vực.

Sự phát triển ồ ạt của hoạt động xây dựng tại Đông Dương cũng thúc đẩy các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng khác như sản xuất gạch ngói, sản xuất dầm cầu bằng thép, chế tạo khung nhà thép cho các nhà xưởng công nghiệp…

Khác với đá, vôi, vữa, gỗ, xi măng, gạch nung, cát xây dựng là yếu tố hoàn toàn mới trong các loại vật liệu xây dựng tại Việt Nam lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của những vật liệu xây dựng mới đã dẫn tới những thay đổi lớn trong phương pháp thi công và quy mô các công trình xây dựng tại nước ta, góp phần thúc đẩy các chuyển biến sâu sắc về kinh tế và xã hội Việt Nam.

Gạch Hưng Ký

Vị thế độc quyền sản xuất gạch nung của người Pháp bị phá vỡ khi nhà tư sản dân tộc Trần Văn Thành mua lại Hãng gạch Briqueteries et Tuileries du Tonkin của người Pháp tại Yên Viên (Hà Nội ngày nay) vào năm 1921 và đổi tên thành Hãng gạch Hưng Ký. Từ một nhà máy có quy mô nhỏ, doanh nhân Trần Văn Thành đã dần mở rộng hoạt động kinh doanh.

Nhà máy hoạt động với 3 lò liên hoàn, sản xuất gạch hai lỗ chạy song song, đạt công suất lên tới 3,6 triệu viên gạch/năm vào năm 1925. Tại Hội chợ Đấu xảo Marseille tại Pháp vào năm 1922, thương hiệu gạch Hưng Ký đã được tặng thưởng huân chương cho sản phẩm chất lượng cao. Với tầm nhìn sâu rộng, ông Trần Văn Thành đã cho dập chữ Hưng Ký lên các viên gạch để quảng bá thương hiệu. Với chất lượng cao, gạch Hưng Ký là doanh nghiệp Việt duy nhất đủ sức cạnh tranh với Hãng gạch S.A.T.I.C của Pháp. Gạch, ngói Hưng Ký đã in dấu trong nhiều công trình kiến trúc của Hà Nội, Bắc Kỳ, Lào, Campuchia, Singapore…

gạch Hưng Ký


5. British Naval Intelligence Division of the Admiralty. (2013). Indo-China : Geographical
handbook. London: Taylor and Francis.

Danh mục

Tùy chỉnh