2. Cải tiến quản công nghiệp

Những năm 1986 - 1990 giai đoạn giao thời giữa hai chế mới. Từng bộ phận của chế được xóa bỏ, từng bước hình thành chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 1990. Sự đổi mới trong giai đoạn này chủ yếu từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần.

sản xuất giấy Sản xuất giấy xuất khẩu tại nghiệp Liên hợp giấy Vĩnh Phú (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trên tinh thần đó, nhiều chế, chính sách mới được xác lập, ý nghĩa quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất điều chỉnh hiệu quả cấu kinh tế, cấu công nghiệp. Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh đã giao quyền tự chủ cho các nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch, kể cả chỉ tiêu thu mua công nghiệp, chỉ để lại duy nhất hai chỉ tiêu giá trị sản lượng các khoản nộp ngân sách. Ngân sách cũng đã khắc phục được những bất cập của Quyết định số 76/HĐBT ngày 26/6/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế sở. Theo Quyết định số 76/HĐBT, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh - hội của nghiệp phải được phản ánh trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính - hội thống nhất theo kế hoạch 5 năm kế hoạch hằng năm. Các đơn vị sản xuất quốc doanh phải lấy các định mức kinh tế - kỹ thuật được cấp thẩm quyền quy định làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch, xét duyệt hoàn thành kế hoạch. Kế hoạch toàn diện của nghiệp phải bao gồm các bộ phận kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm; vật - kỹ thuật, vận tải; lao động, tiền lương; đầu xây dựng bản; khoa học - kỹ thuật; giá thành; tài chính, tín dụng; đời sống hội,... được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu hiện vật giá trị. Đối với những sản phẩm chủ yếu quy định trong nhiệm vụ của nghiệp thuộc danh mục sản phẩm trọng yếu cho nhu cầu sản xuất, đời sống, quốc phòng xuất khẩu, thì nghiệp phải đạt kế hoạch sản xuất theo yêu cầu của Nhà nước, Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất chỉ định các tổ chức tiêu thụ, nghiệp cùng các tổ chức tiêu thụ được chỉ định hợp đồng kinh tế, xác định quy cách, chủng loại cấu mặt hàng cụ thể, thời hạn giao hàng. Ngay cả với các sản phẩm không thuộc chỉ tiêu pháp lệnh được giao, nếu nghiệp sản xuất bằng các nguồn vật tự cân đối nhưng cũng phải đăng mặt hàng với ngành chủ quản báo cáo quan quản cấp trên trực tiếp. Sản phẩm do nghiệp sản xuất thêm phải tiêu thụ thông qua hợp đồng kinh tế kết với tổ chức kinh doanh vật hoặc thương nghiệp hội chủ nghĩa, trước hết các tổ chức quốc doanh.

Từ khi Quyết định số 217/HĐBT, các chỉ tiêu, kế hoạch theo Quyết định số 76/HĐBT được bãi bỏ. nghiệp quyền tự chủ xây dựng thực hiện kế hoạch dài hạn, trung hạn ngắn hạn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, quyền mở rộng các hoạt động giao hoặc nhận gia công cho các đơn vị khác, tổ chức dịch vụ kỹ thuật, bảo hành, sửa chữa cho các sản phẩm của mình cũng như cung ứng linh kiện thay thế cho sản phẩm do nghiệp làm ra. nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho ai hoàn toàn thuộc quyền quyết định của nghiệp.

Cùng với việc đổi mới kinh tế quốc doanh, Nhà nước nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Ngày 29/12/1987, Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam được thông qua. Đây được coi bước ngoặt lịch sử, văn bản pháp quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu nước ngoài, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài đầu vào Việt Nam. Các quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của đối tác nước ngoài được Nhà nước bảo hộ, khẳng định trong Luật: “Trong quá trình đầu vào Việt Nam, vốn tài sản của các tổ chức, nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, nghiệp vốn đầu nước ngoài không bị quốc hữu hóa”.

Luật cũng cho phép các tổ chức, nhân nước ngoài đầu vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh, những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ, tiền gốc lãi của các khoản cho vay trong quá trình hoạt động, vốn đầu các khoản tiền, tài sản khác.

Một điểm nhấn khác của Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cho phép nhà đầu nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn. Điều khoản này thể hiện cam kết Việt Nam coi trọng lợi ích của nhà đầu tư. Đây cũng nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó, các nước nền kinh tế mở hơn như: Thái Lan, Inđônêxia các nước trong khu vực cũng chưa loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Năm 1988 - năm đầu thực hiện Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam đã cấp phép cho 37 dự án, với tổng vốn đăng 366 triệu USD; năm 1989 cấp phép cho 70 dự án, số vốn 539 triệu USD, tăng 89,2% về số dự án 47,3% về vốn đăng ký; năm 1990 cấp phép cho 111 dự án, tổng vốn đăng 803 triệu USD, tương đương với số dự án bằng 88% số vốn của hai năm 1988, 1989 cộng lại.

xưởng dệt Xưởng dệt PP, PE của Công ty Caps Texvina (Khu công nghiệp Thụy Vân, Phú Thọ), 100% vốn đầu của Hàn Quốc (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, năm 1988 hai nghị định về kinh tế nhân kinh tế gia đình được ban hành. Nghị định số 27/HĐBT ngày 09/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế thể, kinh tế doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải. Trong đó, Nhà nước công nhận sự tồn tại các tác dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế thể, kinh tế doanh trong cấu nền kinh tế quốc dân của Việt Nam; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này hoạt động, phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải với quy mô, ngành nghề thích hợp. Nhà nước công nhận bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế của công dân thuộc các thành phần kinh tế này. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử theo pháp luật. Doanh nghiệp nhân quyền dùng ngoại tệ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình để hợp đồng với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước đặt mua nguyên liệu, vật tư, thiết bị từ nước ngoài; nhận vật tư, thiết bị, ngoại tệ của thân nhân nước ngoài gửi về, không hạn chế về số lượng được ưu đãi về chính sách thuế; được quyền bán vàng cho ngân hàng lấy ngoại tệ. Đây điểm khá cởi mở thời điểm đó, bởi hơn một năm sau, đến tháng 5/1989, Hội đồng Bộ trưởng mới cho phép nhân được tự do kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Doanh nghiệp nhân cũng được quyền gửi vàng để vay ngoại tệ nhập khẩu vật tư, thiết bị cho sản xuất; tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài hợp đồng mua vật - bán sản phẩm, hoặc gia công với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước...

hộ kinh tế Tổng thư Đỗ Mười thăm một hộ làm kinh tế giỏi thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, tháng 9/1994 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 09/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 29/HĐBT ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế gia đình trong hoạt động sản xuất dịch vụ sản xuất. Trong đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong các chính sách kinh tế, nhằm khuyến khích kinh tế gia đình phát triển trong các lĩnh vực sản xuất dịch vụ sản xuất.

Nhà nước công nhận bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của những người làm kinh tế gia đình. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử theo pháp luật. Những người làm kinh tế gia đình trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải không phải xin cấp đăng kinh doanh được thực hiện nhiều quyền sau đây:

- Mua nguyên liệu trong nước để sản xuất, mua vật tư, thiết bị lẻ của Nhà nước.

- Được nhận gia công đặt hàng của các tổ chức kinh doanh của Nhà nước (công ty vật tư, nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ty thương nghiệp), các đơn vị kinh tế tập thể thành phần kinh tế khác.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài mức hợp đồng mua vật tư, bán sản phẩm hoặc gia công đặt hàng với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước, với các đơn vị kinh tế tập thể.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm khác làm ra theo chính sách lưu thông hàng hóa của Nhà nước.

- hợp đồng với bất cứ đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nào để bán các sản phẩm xuất khẩu do gia đình làm ra, mua lại vật để tái sản xuất, kể cả vật nhập khẩu.

- Tự chọn ngân hàng để mở tài khoản, được rút tiền mặt từ tài khoản của mình ngân hàng; được vay vốn của ngân hàng để phát triển kinh tế gia đình theo các quy định của ngân hàng; được nhận ngoại tệ của người thân nước ngoài gửi về qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để phục vụ sản xuất.

- Được miễn mọi loại thuế kinh doanh.

Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15/7/1988 về đổi mới chính sách chế quản đối với các sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, Bộ Chính trị ghi nhận lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh đã “cung cấp một phần quan trọng sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm xuất khẩu đáp ứng một phần đáng kể liệu sản xuất cho nhiều ngành kinh tế. Gần 2 triệu lao động chuyên sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, làm công nghiệp xây dựng, vận tải hàng chục vạn lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn đã tạo ra 60% giá trị công nghiệp địa phương”1. Đây bước tiến căn bản cho thấy Đảng đã nhận ra rằng, khi kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận, vẫn phát triển dưới nhiều hình thức, vừa không khai thác hết được lợi ích cho nền kinh tế, vừa không quản được, làm thất thu ngân sách nhà nước, thậm chí thể làm biến chất những cán bộ quản lợi dụng sự không thừa nhận của pháp luật để ăn chia với các hoạt động kinh tế ngầm. Từ đó, Đảng ta kịp thời chủ trương: “Nhà nước chính sách biện pháp cụ thể bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế”2; “bằng luật pháp các chính sách quản kinh tế cụ thể, nhất các chính sách thuế đúng đắn, Nhà nước tác động tích cực vào quá trình hình thành phát triển các ngành, nghề cần thiết”3; “Nhà nước bảo đảm quyền tự quản của các sở sản xuất tập thể, công hợp doanh, thể, tiểu chủ của các nghiệp bản doanh; xác định quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của hệ thống quan chính quyền các cấp, của các quan quản ngành kinh tế kỹ thuật cũng như của các quan liên quan vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc tự quản của các sở sản xuất, vừa bảo đảm sự kiểm tra, kiểm soát đúng đắn của Nhà nước”4.

Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành hai luật góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế nhân. Luật công ty, cho phép mọi công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức hội quyền góp vốn đầu hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; Luật doanh nghiệp nhân, với sự công nhận của Nhà nước: “sự tồn tại lâu dài phát triển của doanh nghiệp nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh nghiệp khác tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp nhân quyền tự do kinh doanh chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh”.

Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh doanh nghiệp FDI cũng đặt ra bài toán phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương cũng như tăng cường vai trò quản nhà nước. Đổi mới nghiệp quốc doanh (sau này gọi doanh nghiệp nhà nước) một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.

Năm 1994, Chính phủ hai quyết định thành lập Tổng Công ty 90 Tổng Công ty 91. Quyết định số 90-TTg ngày 07/3/1994 về tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước nhằm sắp xếp, thành lập đăng lại các liên hiệp nghiệp, tổng công ty (gọi chung tổng công ty). Các tổng công ty nhà nước được xem xét thành lập đăng lại khi đủ các điều kiện: ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; toàn tổng công ty vốn pháp định trên 500 tỉ đồng, đối với một số tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỉ đồng.

Quyết định số 90-TTg cũng nêu 3 điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa điều kiện đầu phát triển. Dành ưu tiên các nguồn vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ mở rộng năng lực của những doanh nghiệp hiện đang hoạt động, nhất những doanh nghiệp nhà nước yêu cầu phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn. Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Quyết định số 91-TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh, nêu nguyên tắc: Tập đoàn phải 7 doanh nghiệp thành viên trở lên vốn pháp định ít nhất 1.000 tỉ đồng; tập đoàn thể hoạt động kinh doanh đa ngành, song nhất thiết phải định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Vào thời điểm năm 1994, tập đoàn kinh doanh hình thức tổ chức doanh nghiệp còn rất mới mẻ Việt Nam. vậy, các nhóm doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 91-TTg chưa được gọi tập đoàn ngay, được gọi chung các Tổng Công ty 91. Đến năm 2006, một số Tổng Công ty 91 bắt đầu chuyển thành các tập đoàn, số còn lại vẫn giữ tên tổng công ty.

Danh sách Tổng Công ty 91

1. Tập đoàn Dệt May Việt Nam

2. Tập đoàn Bảo Việt

3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam

4. Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

3. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

6. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam

7. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

8. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

9. Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam

10. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội

11. Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam

12. Tổng Công ty Sông Đà

13. Tổng Công ty Thuốc Việt Nam

14. Tổng Công ty Thép Việt Nam

15. Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

16. Tổng Công ty Lương thực miền Bắc

17. Tổng Công ty Lương thực miền Nam

18. Tổng Công ty Giấy Việt Nam

19. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

20. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam

21. Tổng Công ty phê Việt Nam

22. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam


1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.319-320, 325, 322, 325-326.

2. Cải tiến quản công nghiệp

Những năm 1986 - 1990 giai đoạn giao thời giữa hai chế mới. Từng bộ phận của chế được xóa bỏ, từng bước hình thành chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 1990. Sự đổi mới trong giai đoạn này chủ yếu từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần.

sản xuất giấy Sản xuất giấy xuất khẩu tại nghiệp Liên hợp giấy Vĩnh Phú (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trên tinh thần đó, nhiều chế, chính sách mới được xác lập, ý nghĩa quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất điều chỉnh hiệu quả cấu kinh tế, cấu công nghiệp. Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh đã giao quyền tự chủ cho các nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch, kể cả chỉ tiêu thu mua công nghiệp, chỉ để lại duy nhất hai chỉ tiêu giá trị sản lượng các khoản nộp ngân sách. Ngân sách cũng đã khắc phục được những bất cập của Quyết định số 76/HĐBT ngày 26/6/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế sở. Theo Quyết định số 76/HĐBT, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh - hội của nghiệp phải được phản ánh trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính - hội thống nhất theo kế hoạch 5 năm kế hoạch hằng năm. Các đơn vị sản xuất quốc doanh phải lấy các định mức kinh tế - kỹ thuật được cấp thẩm quyền quy định làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch, xét duyệt hoàn thành kế hoạch. Kế hoạch toàn diện của nghiệp phải bao gồm các bộ phận kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm; vật - kỹ thuật, vận tải; lao động, tiền lương; đầu xây dựng bản; khoa học - kỹ thuật; giá thành; tài chính, tín dụng; đời sống hội,... được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu hiện vật giá trị. Đối với những sản phẩm chủ yếu quy định trong nhiệm vụ của nghiệp thuộc danh mục sản phẩm trọng yếu cho nhu cầu sản xuất, đời sống, quốc phòng xuất khẩu, thì nghiệp phải đạt kế hoạch sản xuất theo yêu cầu của Nhà nước, Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất chỉ định các tổ chức tiêu thụ, nghiệp cùng các tổ chức tiêu thụ được chỉ định hợp đồng kinh tế, xác định quy cách, chủng loại cấu mặt hàng cụ thể, thời hạn giao hàng. Ngay cả với các sản phẩm không thuộc chỉ tiêu pháp lệnh được giao, nếu nghiệp sản xuất bằng các nguồn vật tự cân đối nhưng cũng phải đăng mặt hàng với ngành chủ quản báo cáo quan quản cấp trên trực tiếp. Sản phẩm do nghiệp sản xuất thêm phải tiêu thụ thông qua hợp đồng kinh tế kết với tổ chức kinh doanh vật hoặc thương nghiệp hội chủ nghĩa, trước hết các tổ chức quốc doanh.

Từ khi Quyết định số 217/HĐBT, các chỉ tiêu, kế hoạch theo Quyết định số 76/HĐBT được bãi bỏ. nghiệp quyền tự chủ xây dựng thực hiện kế hoạch dài hạn, trung hạn ngắn hạn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, quyền mở rộng các hoạt động giao hoặc nhận gia công cho các đơn vị khác, tổ chức dịch vụ kỹ thuật, bảo hành, sửa chữa cho các sản phẩm của mình cũng như cung ứng linh kiện thay thế cho sản phẩm do nghiệp làm ra. nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho ai hoàn toàn thuộc quyền quyết định của nghiệp.

Cùng với việc đổi mới kinh tế quốc doanh, Nhà nước nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Ngày 29/12/1987, Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam được thông qua. Đây được coi bước ngoặt lịch sử, văn bản pháp quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu nước ngoài, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài đầu vào Việt Nam. Các quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của đối tác nước ngoài được Nhà nước bảo hộ, khẳng định trong Luật: “Trong quá trình đầu vào Việt Nam, vốn tài sản của các tổ chức, nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, nghiệp vốn đầu nước ngoài không bị quốc hữu hóa”.

Luật cũng cho phép các tổ chức, nhân nước ngoài đầu vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh, những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ, tiền gốc lãi của các khoản cho vay trong quá trình hoạt động, vốn đầu các khoản tiền, tài sản khác.

Một điểm nhấn khác của Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cho phép nhà đầu nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn. Điều khoản này thể hiện cam kết Việt Nam coi trọng lợi ích của nhà đầu tư. Đây cũng nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó, các nước nền kinh tế mở hơn như: Thái Lan, Inđônêxia các nước trong khu vực cũng chưa loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Năm 1988 - năm đầu thực hiện Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam đã cấp phép cho 37 dự án, với tổng vốn đăng 366 triệu USD; năm 1989 cấp phép cho 70 dự án, số vốn 539 triệu USD, tăng 89,2% về số dự án 47,3% về vốn đăng ký; năm 1990 cấp phép cho 111 dự án, tổng vốn đăng 803 triệu USD, tương đương với số dự án bằng 88% số vốn của hai năm 1988, 1989 cộng lại.

xưởng dệt Xưởng dệt PP, PE của Công ty Caps Texvina (Khu công nghiệp Thụy Vân, Phú Thọ), 100% vốn đầu của Hàn Quốc (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, năm 1988 hai nghị định về kinh tế nhân kinh tế gia đình được ban hành. Nghị định số 27/HĐBT ngày 09/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế thể, kinh tế doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải. Trong đó, Nhà nước công nhận sự tồn tại các tác dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế thể, kinh tế doanh trong cấu nền kinh tế quốc dân của Việt Nam; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này hoạt động, phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải với quy mô, ngành nghề thích hợp. Nhà nước công nhận bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế của công dân thuộc các thành phần kinh tế này. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử theo pháp luật. Doanh nghiệp nhân quyền dùng ngoại tệ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình để hợp đồng với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước đặt mua nguyên liệu, vật tư, thiết bị từ nước ngoài; nhận vật tư, thiết bị, ngoại tệ của thân nhân nước ngoài gửi về, không hạn chế về số lượng được ưu đãi về chính sách thuế; được quyền bán vàng cho ngân hàng lấy ngoại tệ. Đây điểm khá cởi mở thời điểm đó, bởi hơn một năm sau, đến tháng 5/1989, Hội đồng Bộ trưởng mới cho phép nhân được tự do kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Doanh nghiệp nhân cũng được quyền gửi vàng để vay ngoại tệ nhập khẩu vật tư, thiết bị cho sản xuất; tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài hợp đồng mua vật - bán sản phẩm, hoặc gia công với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước...

hộ kinh tế Tổng thư Đỗ Mười thăm một hộ làm kinh tế giỏi thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, tháng 9/1994 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 09/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 29/HĐBT ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế gia đình trong hoạt động sản xuất dịch vụ sản xuất. Trong đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong các chính sách kinh tế, nhằm khuyến khích kinh tế gia đình phát triển trong các lĩnh vực sản xuất dịch vụ sản xuất.

Nhà nước công nhận bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản thu nhập hợp pháp của những người làm kinh tế gia đình. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử theo pháp luật. Những người làm kinh tế gia đình trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải không phải xin cấp đăng kinh doanh được thực hiện nhiều quyền sau đây:

- Mua nguyên liệu trong nước để sản xuất, mua vật tư, thiết bị lẻ của Nhà nước.

- Được nhận gia công đặt hàng của các tổ chức kinh doanh của Nhà nước (công ty vật tư, nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ty thương nghiệp), các đơn vị kinh tế tập thể thành phần kinh tế khác.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài mức hợp đồng mua vật tư, bán sản phẩm hoặc gia công đặt hàng với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước, với các đơn vị kinh tế tập thể.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm khác làm ra theo chính sách lưu thông hàng hóa của Nhà nước.

- hợp đồng với bất cứ đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nào để bán các sản phẩm xuất khẩu do gia đình làm ra, mua lại vật để tái sản xuất, kể cả vật nhập khẩu.

- Tự chọn ngân hàng để mở tài khoản, được rút tiền mặt từ tài khoản của mình ngân hàng; được vay vốn của ngân hàng để phát triển kinh tế gia đình theo các quy định của ngân hàng; được nhận ngoại tệ của người thân nước ngoài gửi về qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để phục vụ sản xuất.

- Được miễn mọi loại thuế kinh doanh.

Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15/7/1988 về đổi mới chính sách chế quản đối với các sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, Bộ Chính trị ghi nhận lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh đã “cung cấp một phần quan trọng sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm xuất khẩu đáp ứng một phần đáng kể liệu sản xuất cho nhiều ngành kinh tế. Gần 2 triệu lao động chuyên sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, làm công nghiệp xây dựng, vận tải hàng chục vạn lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn đã tạo ra 60% giá trị công nghiệp địa phương”1. Đây bước tiến căn bản cho thấy Đảng đã nhận ra rằng, khi kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận, vẫn phát triển dưới nhiều hình thức, vừa không khai thác hết được lợi ích cho nền kinh tế, vừa không quản được, làm thất thu ngân sách nhà nước, thậm chí thể làm biến chất những cán bộ quản lợi dụng sự không thừa nhận của pháp luật để ăn chia với các hoạt động kinh tế ngầm. Từ đó, Đảng ta kịp thời chủ trương: “Nhà nước chính sách biện pháp cụ thể bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế”2; “bằng luật pháp các chính sách quản kinh tế cụ thể, nhất các chính sách thuế đúng đắn, Nhà nước tác động tích cực vào quá trình hình thành phát triển các ngành, nghề cần thiết”3; “Nhà nước bảo đảm quyền tự quản của các sở sản xuất tập thể, công hợp doanh, thể, tiểu chủ của các nghiệp bản doanh; xác định quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của hệ thống quan chính quyền các cấp, của các quan quản ngành kinh tế kỹ thuật cũng như của các quan liên quan vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc tự quản của các sở sản xuất, vừa bảo đảm sự kiểm tra, kiểm soát đúng đắn của Nhà nước”4.

Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành hai luật góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế nhân. Luật công ty, cho phép mọi công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức hội quyền góp vốn đầu hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; Luật doanh nghiệp nhân, với sự công nhận của Nhà nước: “sự tồn tại lâu dài phát triển của doanh nghiệp nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh nghiệp khác tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp nhân quyền tự do kinh doanh chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh”.

Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh doanh nghiệp FDI cũng đặt ra bài toán phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương cũng như tăng cường vai trò quản nhà nước. Đổi mới nghiệp quốc doanh (sau này gọi doanh nghiệp nhà nước) một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.

Năm 1994, Chính phủ hai quyết định thành lập Tổng Công ty 90 Tổng Công ty 91. Quyết định số 90-TTg ngày 07/3/1994 về tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước nhằm sắp xếp, thành lập đăng lại các liên hiệp nghiệp, tổng công ty (gọi chung tổng công ty). Các tổng công ty nhà nước được xem xét thành lập đăng lại khi đủ các điều kiện: ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; toàn tổng công ty vốn pháp định trên 500 tỉ đồng, đối với một số tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỉ đồng.

Quyết định số 90-TTg cũng nêu 3 điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa điều kiện đầu phát triển. Dành ưu tiên các nguồn vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ mở rộng năng lực của những doanh nghiệp hiện đang hoạt động, nhất những doanh nghiệp nhà nước yêu cầu phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn. Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Quyết định số 91-TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh, nêu nguyên tắc: Tập đoàn phải 7 doanh nghiệp thành viên trở lên vốn pháp định ít nhất 1.000 tỉ đồng; tập đoàn thể hoạt động kinh doanh đa ngành, song nhất thiết phải định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Vào thời điểm năm 1994, tập đoàn kinh doanh hình thức tổ chức doanh nghiệp còn rất mới mẻ Việt Nam. vậy, các nhóm doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 91-TTg chưa được gọi tập đoàn ngay, được gọi chung các Tổng Công ty 91. Đến năm 2006, một số Tổng Công ty 91 bắt đầu chuyển thành các tập đoàn, số còn lại vẫn giữ tên tổng công ty.

Danh sách Tổng Công ty 91

1. Tập đoàn Dệt May Việt Nam

2. Tập đoàn Bảo Việt

3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam

4. Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

3. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

6. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam

7. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

8. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

9. Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam

10. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội

11. Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam

12. Tổng Công ty Sông Đà

13. Tổng Công ty Thuốc Việt Nam

14. Tổng Công ty Thép Việt Nam

15. Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

16. Tổng Công ty Lương thực miền Bắc

17. Tổng Công ty Lương thực miền Nam

18. Tổng Công ty Giấy Việt Nam

19. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

20. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam

21. Tổng Công ty phê Việt Nam

22. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam


1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.319-320, 325, 322, 325-326.

1. Điều chỉnh cơ cấu phát triển công nghiệp

Trong 5 năm 1976 - 1980, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, dẫn đến cơ cấu công nghiệp thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả không cao.

Trên cơ sở xác định lại bước đi của công nghiệp hóa, Đại hội V của Đảng chủ trương trong 5 năm 1981 - 1985 phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, do chưa thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của Đảng nên nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn đã được Đại hội VI của Đảng chỉ ra là: “hầu như không sắp xếp lại các cơ sở sản xuất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật tư có hạn vào những cơ sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản xuất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng cơ bản, tuy đã đình, hoãn một số công trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm, nhưng về căn bản, vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết đình, hoãn những công trình chưa thật cấp bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. Các địa phương và các ngành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn và vật tư”1.

Ngay sau Đại hội VI, chúng ta thực hiện từng bước việc đổi mới các chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy và tổng kết các thử nghiệm trong thực tế. Vấn đề đổi mới rõ nhất là điều chỉnh cơ cấu đầu tư và xác lập cơ chế quản lý mới.

Trong đầu tư, Nhà nước không dồn quá nhiều vốn đầu tư vào công nghiệp nặng, quy mô lớn, đã kiên quyết đình và hoãn gần 40 công trình lớn, cắt giảm gần 300 công trình nhỏ, chỉ tập trung vào các công trình có khả năng huy động vào sản xuất trong kỳ kế hoạch, như các công trình năng lượng, dầu khí, phân bón... Phần lớn nguồn vốn đầu tư của Nhà nước dành cho ba chương trình kinh tế lớn, gồm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. “Trong 5 năm 1986 - 1990 đã dành cho 3 chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu tư của ngân sách trung ương, 75 - 80% vốn đầu tư của địa phương”2. Bên cạnh đó, phát triển một số ngành công nghiệp nguyên liệu, vật liệu, chủ yếu là hóa chất cơ bản, phân bón, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim loại đen và màu; xây dựng công nghiệp lọc, hóa dầu theo công nghệ hiện đại cùng với sự phát triển một số ngành khác đi từ nguyên liệu dầu và khí.

Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1991 - 1995 được Đại hội VII của Đảng đề ra, tiếp tục điều chỉnh cơ cấu kinh tế hướng vào 3 chương trình kinh tế lớn nhằm “ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”3. Sự đầu tư vào các ngành công nghiệp cũng nhằm đến 3 chương trình này. Cụ thể, trong 5 năm 1991 - 1995, Nhà nước chú trọng đầu tư nhằm tăng nhanh sản lượng khai thác dầu khí; phát triển điện lực, nhất là ở miền Trung và miền Nam; sắp xếp và đầu tư chiều sâu phát triển ngành Cơ khí nhằm trước hết phục vụ sản xuất và chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp điện tử - tin học; sớm xây dựng cơ sở lọc dầu, sản xuất phân đạm; khai thác đá quý, bôxít, đất hiếm... Công nghiệp nhẹ được đầu tư theo hướng phát triển chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu đa dạng, phục vụ tốt tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc làm.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (năm 1991) cũng thể hiện rõ sự chuyển hướng này:

“Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”4.

“Công nghiệp tư liệu sản xuất và khai thác, chế biến khoáng sản: Phát triển có chọn lựa một số ngành, trước hết hướng vào phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quy mô, thời điểm xây dựng và mức độ phát triển các ngành này căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu tư, nhất là khả năng tranh thủ vốn và kỹ thuật ngoài nước”5.

“Tận dụng khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức, quy mô và công nghệ thích hợp để thỏa mãn nhu cầu về các loại hàng thông thường (hàng dệt và may mặc, giấy, thuốc chữa bệnh, kim khí tiêu dùng...), tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu. Tích cực tạo nguồn nguyên liệu và tăng năng lực trang bị kỹ thuật trong nước, đồng thời đẩy mạnh nhập nguyên liệu và thiết bị mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới thiết bị, công nghệ và bảo đảm chất lượng các loại nguyên liệu, vật liệu để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Khuyến khích chế tạo mặt hàng mới. Mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác với nước ngoài làm hàng xuất khẩu là một hướng ưu tiên để phát triển và hiện đại hóa các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng”6.

Xi măng Hà Tiên Từ năm 1985, Nhà máy Liên hợp Ximăng Hà Tiên được tiếp tục mở rộng theo công nghệ hiện đại của Pháp; đến năm 1991, dây chuyền sản xuất clinker theo phương pháp khô của Nhà máy được hình thành (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư công nghiệp được thực hiện từ Nhà nước và thông qua sự công nhận, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân. Nhà nước đã xác định chỉ phát triển kinh tế quốc doanh trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn Nhà nước hoặc hình thức doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối, sẽ hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho một số cơ sở thật sự cần thiết.

Sự chuyển hướng đầu tư công nghiệp và phát triển của các thành phần kinh tế, sản xuất công nghiệp trong 10 năm đầu thực hiện đổi mới (1986 - 1995) có sự phát triển mạnh mẽ, thời kỳ 5 năm sau cao hơn thời kỳ 5 năm trước.

Về tăng trưởng, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng khá. Tính theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất công nghiệp từ 39,7 tỉ đồng năm 1985, tăng lên 52,9 tỉ đồng năm 1990 và đạt 103,4 tỉ đồng năm 1995. Tính bình quân, thời kỳ 1986 - 1990, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 5,9%/năm; thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, gấp 2,3 lần thời kỳ 1986 - 19907.

Bảng 43: Danh mục các ngành ưu tiên từ Đại hội III đến Đại hội VII của Đảng

bảng 43

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ III, IV, V, VI, VII của Đảng.

Dung Quất 1995 Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem xét quy hoạch tổng thể dự án xây dựng thành phố Vạn Tường và Khu công nghiệp lọc hóa dầu Dung Quất, tháng 7/1995 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Về sản phẩm, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sức cạnh tranh và tiêu thụ tốt hơn. Nhiều mặt hàng chế biến đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và xuất khẩu tăng dần như dệt may, da giày, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, điện gia dụng, đồ gỗ, quạt điện. Đặc biệt, ta đã bắt đầu có sản phẩm dầu thô với sản lượng 41 nghìn tấn năm 1986, năm 1987 tăng gấp 7 lần, đạt 280 nghìn tấn; năm 1988 là 688 nghìn tấn; từ năm 1989, sản lượng dầu thô khai thác được tính bằng đơn vị triệu tấn: 1,52 triệu tấn. Các sản phẩm công nghiệp nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu và phục vụ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.

Về cơ cấu, tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu chung của nền kinh tế. Sự đóng góp của công nghiệp tiến sát ngưỡng chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Thực tế, sản xuất công nghiệp giai đoạn 1991 - 1995 tăng trưởng ấn tượng, bình quân 13,7%/năm, nhưng đây cũng là những năm đầu của thời kỳ đổi mới, các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, “bung” ra rất mạnh, song chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ. Nếu năm 1986, dịch vụ chỉ chiếm 16,1% trong GDP (do kinh tế tư nhân chưa “bung” ra), đến năm 1990 đã đạt 37,7%, năm 1995 đạt 44,07%.

bảng 44

bảng 45

Cơ cấu các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp cũng có sự dịch chuyển đáng kể. Bên cạnh kinh tế tư nhân trong nước, năm 1987, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; đã thu hút và tạo ra một lực lượng doanh nghiệp FDI hùng hậu về vốn và kỹ thuật, cùng với kinh tế tư nhân trong nước làm thay đổi cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp của kinh tế quốc doanh.

Giá trị sản xuất trong khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm dần về tỷ trọng, từ 56,5% năm 1985 xuống 50,4% năm 1995. Điều này không có nghĩa sản xuất của doanh nghiệp nhà nước co lại, mà là biểu hiện của sự “bung” ra của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong những năm đầu đổi mới, nhưng sau khi có sự tham gia của khu vực FDI đã giảm mạnh về tỷ trọng, từ 41,4% năm 1990 xuống còn 24,6% năm 1995. Riêng khu vực FDI từ khi xuất hiện đã liên tục tăng trưởng ở mức cao, bình quân trên 23%/năm giai đoạn 1991 - 1995, đến năm 1995 đã vượt kinh tế tư nhân trong nước, chiếm 25,1% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Khu vực kinh tế này ngày càng có những đóng góp quan trọng vào sản xuất công nghiệp.

bảng 46

bảng 47

Mặc dù vậy, xét về tốc độ tăng trưởng, khu vực nhà nước và tư nhân trong nước có sự tăng trưởng đồng đều hơn trong suốt giai đoạn 1991 - 1995, bình quân trên 10%/năm, trong khi khu vực FDI tăng tốc mạnh những năm 1991, 1992 với trên 40%, sau đó giảm xuống trên 10% những năm 1993, 1994 và xuống dưới 10% năm 1995.

Hoạt động của khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và thực phẩm, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Những sản phẩm mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đóng góp nhiều nhất cho công nghiệp bao gồm: quần áo may sẵn; giày, dép da, giày vải; gỗ xẻ; chiếu cói; thảm đay; vải màn sợi bông; khăn mặt, khăn tay; chè chế biến; gạo, ngô xay xát; dầu thực phẩm; sứ công nghiệp; nông cụ cầm tay; xe cải tiến; máy tuốt lúa không có động cơ; quạt điện...

Sản xuất công nghiệp tăng mạnh, chuyển dịch sang đầu tư sản xuất hàng công nghiệp chế biến, phù hợp với xu hướng thị trường và định hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Điều này thể hiện rõ trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.

bảng 48

Bảng 50 cho thấy tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh, trong khi hàng nông, lâm, thủy sản mặc dù kim ngạch tuyệt đối tăng nhưng tỷ trọng giảm 11% trong 10 năm.

Trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, do hậu quả nặng nề nhiều năm của cơ chế bao cấp, nên khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều xí nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn liếng thiếu hụt, hàng hóa ứ đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít xí nghiệp phá sản... Nhưng, với bản lĩnh kiên cường, nhiều xí nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn khủng hoảng về thị trường và tiêu thụ để vực dậy vào cuối năm 1989. Trong sự cạnh tranh đó, nhiều doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh năng động, sáng tạo, phát triển tốt đã tạo nên bức tranh đa dạng với nhiều điểm sáng, góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế mới, đặt niềm tin vững chắc vào sự phát triển ổn định của một nền kinh tế có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, điển hình như Nhà máy Bột ngọt Tân Bình (VIFON), Nhà máy Cơ khí Quang Trung (Ninh Bình), Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà, Nhà máy Dệt kim Đông Xuân, Công ty May Việt Tiến, Liên hiệp Thực phẩm vi sinh Hà Nội, Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (VISSAN),...

Nền công nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới (1986 - 1995) đã bước đầu hình thành một cơ cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt công nghiệp gia đình đã hình thành và bước đầu phát triển. Công nghiệp hóa đã góp phần làm biến đổi bộ mặt đất nước. Các nhà máy đã mọc lên ở khắp các địa phương, kể cả ở miền núi, nơi mà trước đây chưa hề biết công nghiệp là gì. Trên đồng ruộng đã xuất hiện hàng vạn cây số đường dây điện cao thế, hàng nghìn trạm bơm thủy lợi, điện đã được các gia đình sử dụng phổ biến trong sản xuất và sinh hoạt. Công nghiệp nặng đã chế tạo được máy động lực, máy công cụ, thiết bị lẻ và một số thiết bị toàn bộ cỡ nhỏ trang bị cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp nhẹ đã sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống và xuất khẩu. Một đội ngũ lao động, công nhân và cán bộ khoa học - kỹ thuật công nghiệp trên 3 triệu người đã được đào tạo, bồi dưỡng khá tốt...

Các ngành công nghiệp đã góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, phát huy tác dụng đối với các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với nông nghiệp. Ngành Cơ khí đã có hàng chục mặt hàng phục vụ nông nghiệp. Hằng năm, ngành Năng lượng đã dành cho nông nghiệp hàng triệu kilôoátgiờ điện và hàng triệu tấn than. Ngành Hóa chất đã đưa về đồng ruộng hàng triệu tấn phân hóa học. Các ngành công nghiệp nhẹ cũng đã cung cấp cho nông dân những mặt hàng thiết yếu về ăn, mặc, ở, tiêu dùng, đi lại, học tập, chữa bệnh... Ngoài ra, nhiều xí nghiệp chế biến nông sản được xây dựng, góp phần mở rộng giá trị sử dụng và nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.355.

2. Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Hà Nội, 2012, tr.17.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.91.

4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135, 164, 163.

7. Xem Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, Sđd, tr.85.

3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành Cơ khí

Đây là giai đoạn sắp xếp lại, đổi mới kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm ngành Cơ khí nhằm phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và vận tải; bảo đảm dịch vụ sửa chữa. Nhanh chóng khắc phục tình trạng phân tán của ngành Cơ khí bằng cách sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trong cả nước trên cơ sở quy hoạch, phân công, hợp tác giữa các doanh nghiệp cơ khí để đáp ứng những nhu cầu cấp bách về sửa chữa và trang bị công cụ, một phần máy móc, thiết bị và phụ tùng thông thường cho các ngành, các địa phương, trước hết là sản xuất nông cụ, máy kéo và máy nông nghiệp theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi các loại, bơm thuốc trừ sâu; thiết bị chế biến nông sản cỡ vừa và nhỏ, v.v..

nông dân Vĩnh Phúc

Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng máy tuốt lúa để nâng cao năng suất thu hoạch (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Cơ khí được giao nhiệm vụ là ngành chủ lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng gắn với sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; trước hết là đẩy mạnh cơ giới hóa, thủy lợi hóa, phát triển công nghệ sau thu hoạch trong các khâu sản xuất và chế biến nông sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên một hécta canh tác, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.

Nhìn vào tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm cơ khí phục vụ canh tác và chế biến nông sản, ta sẽ thấy rõ hơn công năng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn của ngành này. Động cơ diesel từ 5,3 nghìn chiếc năm 1985 tăng lên 8 nghìn chiếc năm 1995. Tương tự như vậy, máy tuốt lúa tăng từ 19,6 nghìn cái lên 36,3 nghìn cái; máy xay xát tăng từ 1,19 nghìn cái lên 2,04 nghìn cái; nông cụ cầm tay tăng từ 13,3 triệu cái lên 16,5 triệu cái... Với sự phát triển của cơ khí, sản lượng một số loại nông sản chế biến tăng nhanh trong giai đoạn 1985 - 1995. Cụ thể, gạo, ngô xay xát tăng từ 6,2 triệu tấn lên 15,6 triệu tấn; đường tinh luyện tăng từ 46,6 nghìn tấn lên 93 nghìn tấn; dầu thực vật tăng từ 19,1 nghìn tấn lên 38,6 nghìn tấn; chè tăng từ 20,5 nghìn tấn lên 24,2 nghìn tấn...

b) Ngành Điện

Chính phủ đã dành nhiều vốn đầu tư để xây dựng và hoàn thành nhiều công trình quan trọng:

- Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hoàn thành năm 1994 có công suất lắp máy 1.920 MW, lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á đến năm 2012, khi Nhà máy Thủy điện Sơn La có công suất 2.400 MW được xây dựng.

- Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại hoàn thành đưa vào vận hành năm 1986, có công suất thiết kế 440 MW bao gồm 4 tổ tuốcbin - máy phát và 8 lò hơi theo khối 2 lò/máy, mỗi tổ máy có công suất 110 MW. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, sự đóng góp điện năng kịp thời hòa vào hệ thống lưới điện quốc gia của Nhà máy rất quan trọng, vì thời gian đó chúng ta thiếu điện trầm trọng cho sản xuất - kinh doanh và sinh hoạt. Nhiệt điện Phả Lại được coi như một “cứu tinh” đối với ngành Điện miền Bắc, cho đến khi Thủy điện Hòa Bình vận hành đầy đủ 8 tổ máy.

- Đường dây 500 kV Bắc - Nam có tổng chiều dài 1.487 km, gồm 3.437 cột điện tháp sắt đi qua 13 tỉnh thành phố gồm Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Sông Bé (nay là các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng 297 km (chiếm 20%), trung du - cao nguyên 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) và 17 lần vượt quốc lộ. Công trình phát lệnh khởi công ngày 05/4/1992, nghiệm thu đóng điện tháng 5/1994. Thời điểm này, Việt Nam đã xây dựng xong Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia. Ngày 27/5/1994, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia đã phát lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình qua đường dây 500 kV. Về mặt kỹ thuật, đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 hợp nhất hệ thống điện 3 miền (trước đây vận hành độc lập với nhau), nhờ đó tăng cường được sự hỗ trợ qua lại thế mạnh của hệ thống điện giữa các miền, tăng tính ổn định và độ tin cậy chung của toàn hệ thống.

Phả Lại 1986 Tổ máy số 4 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại chính thức phát điện từ cuối năm 1986 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngoài nguồn điện từ miền Bắc vào qua đường dây 500 kV mạch 1, một công việc cấp bách là bảo đảm điện cho các tỉnh Khu V và Tây Nguyên thông qua đẩy nhanh xây dựng những cơ sở điện mới đã được xác định, đồng thời tăng thêm dầu và phụ tùng để sử dụng tốt hơn những cơ sở điện hiện có. Ở miền Nam, với sự hỗ trợ về tài chính và công nghệ của Liên Xô, Nhà máy Thủy điện Trị An đã phát điện tổ máy số 1 ngày 30/4/1988 và khánh thành năm 1991. Nhà máy có 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 1,7 tỉ kWh.

Một hướng quan trọng khác là bằng khả năng của Trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân, nhiều trạm thủy điện nhỏ được xây dựng ở các vùng, nhất là ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc để giải quyết nguồn điện tại chỗ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đồng bào các dân tộc. Đi đôi với nguồn điện, đã xây dựng kịp thời và đồng bộ các hệ thống lưới điện, từ cao thế đến trung thế và hạ thế. Hoàn thành cải tạo lưới điện Hà Nội, Hải Phòng; tăng thêm nguồn điện và lưới điện cho đồng bằng sông Cửu Long; tiến hành chuẩn bị cải tạo lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác khi có điều kiện. Cải tiến việc phân phối và sử dụng điện, nhằm trước hết bảo đảm một cách ổn định nhu cầu của các trọng điểm về kinh tế và xã hội.

Chuyện làm đường dây 500 kV

GS.VS.TSKH. Trần Đình Long kể: Đầu năm 1992, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Thế Duyệt đến thăm nhà, Tổng Bí thư nói: “Tôi vừa đi thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình cấp điện thật tồi tệ, mỗi tuần thành phố bị cắt điện 4 đến 5 ngày, trong khi Nhà máy Thủy điện Hòa Bình thừa điện phải xả nước, thật vô lý. Phải xây dựng công trình tải điện để đưa điện từ Hòa Bình vào miền Trung và miền Nam càng sớm càng tốt”.

Nhưng có nhiều người băn khoăn về tính khả thi và hiệu quả kinh tế, thời gian dự kiến hoàn thành công trình quá ngắn so với kinh nghiệm thực tế của thế giới, mức độ an toàn của công trình nhìn từ góc độ xã hội có thể gây lo lắng vì nhiều vùng tình hình an ninh phức tạp, có nơi đường dây đi quá gần với biên giới các nước láng giềng... Tất cả những khó khăn trên được báo cáo và phân tích chi tiết, đầy đủ với Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Thủ tướng nói: “Nhiệm vụ của các anh là phải chứng minh và chịu trách nhiệm về tính khả thi của công trình, những việc khác như tiền nong, nhân lực, các vấn đề về xã hội đã có Chính phủ lo”.

Để công trình hoàn thành với thời hạn kỷ lục 2 năm, các khâu lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, chào thầu, chọn nhà thầu... đều làm song song, vừa làm vừa nghiên cứu, bổ sung. Mặc dù vậy, công trình được hoàn thành với chất lượng tốt.

Nguồn: Tạp chí Điện và Đời sống.

đường dây 500kV Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam (Ảnh: Nguyễn Công Thành)

c) Ngành Than

Bước vào công cuộc đổi mới cho đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ngành Than phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt, như: nạn khai thác than trái phép phát triển tràn lan, làm tài nguyên môi trường vùng mỏ bị hủy hoại nghiêm trọng, trật tự và an toàn xã hội diễn biến phức tạp...; nhiều đơn vị sản xuất than phải thu hẹp sản xuất, giảm đào lò, giảm bóc đất, công nhân thiếu việc làm, thu nhập và đời sống khó khăn. Dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành Than là khi Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 563/TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ; ngành Than đã từng bước tháo gỡ khó khăn, xây dựng mục tiêu chiến lược đúng đắn cho sự phát triển, từ đó, đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Sản lượng khai thác lên xuống qua các năm: Năm 1985 khai thác 5,7 triệu tấn, tăng lên 6,9 triệu tấn năm 1988, giảm mạnh xuống 3,8 triệu tấn năm 1989, phục hồi dần từ năm 1990 với 4,6 triệu tấn, tăng dần lên 7,2 triệu tấn năm 1995.

d) Ngành Dầu khí

Trong 10 năm (1986 - 1995), ngành Dầu khí có nhiều thay đổi về mặt tổ chức và khai thác:

- Ngày 26/6/1986 đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên Xô về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.

- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã tạo điều kiện để các công ty dầu khí nước ngoài có thể đầu tư vào Việt Nam với các hợp đồng kinh tế đa dạng.

- Ngày 07/7/1988, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển ngành Dầu khí đến năm 2000, đã khai thông con đường hợp tác đa phương với Liên Xô và các đối tác nước ngoài khác. Từ đó, các công ty dầu khí quốc tế bắt đầu hoạt động thông qua Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí (PSC). Một trong những thành tựu của ngành là phát hiện và khai thác có hiệu quả thân dầu trong đá móng granitoid nứt nẻ. Thành tựu này đã làm thay đổi quan điểm về tìm kiếm thăm dò dầu khí trong đá móng ở Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới.

- Ngày 06/7/1990, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt, trên cơ sở hợp nhất các tổ chức làm công tác dầu khí thuộc Tổng cục Dầu khí cũ, là tổ chức sản xuất - kinh doanh có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, có trách nhiệm nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, xuất, nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ trên thị trường nội địa các sản phẩm dầu mỏ và khí đốt. Thời kỳ này, Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của Bộ Công nghiệp nặng.

dòng khí 1995 Lễ đón dòng khí đầu tiên vào bờ, ngày 17/4/1995 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

- Ngày 14/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 125/HĐBT về việc đặt Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

- Ngày 06/7/1993, Quốc hội ban hành Luật dầu khí, nhằm bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, phát triển kinh tế quốc dân, mở rộng hợp tác với nước ngoài. Luật quy định về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Ngày 17/4/1995, khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Bà Rịa và cung cấp khí cho Nhà máy Điện Bà Rịa. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế và kinh nghiệm thực tế từ dự án này đã góp phần to lớn vào việc hình thành phương thức quản lý các dự án tiếp theo của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng, cũng như việc xây dựng các quy chế, quy định và luật về xây dựng và đấu thầu của Việt Nam nói chung.

- Ngày 29/5/1995, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập, trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam, là tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, làm dịch vụ về dầu khí; xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí, dầu thô, các sản phẩm dầu khí; lưu thông các sản phẩm dầu khí... Tổng Công ty được tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và hải đảo thuộc chủ quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành các hoạt động dầu khí ở nước ngoài khi Chính phủ cho phép.

Sản lượng khai thác tăng trưởng liên tục, từ 0,04 triệu tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990 và 7,67 triệu tấn năm 1995.

đ) Ngành Luyện kim

Về kim loại màu, đã khai thác tốt các mỏ thiếc hiện có, hoàn thành xây dựng đợt I Liên hiệp Thiếc Quỳ Hợp, mở rộng diện khai thác thiếc sa khoáng quy mô nhỏ bằng kỹ thuật thủ công và nửa cơ giới. Theo kế hoạch hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thăm dò địa chất các mỏ bôxít miền Nam, hoàn thành luận chứng kinh tế - kỹ thuật và chuẩn bị khai thác vào kế hoạch sau. Xây dựng và đưa vào vận hành xí nghiệp khai thác và tuyển luyện chì, kẽm; nghiên cứu khai thác quặng đồng và tổ chức tuyển luyện với quy mô nhỏ. Năm 1986: Khởi công công trình sắt xốp công suất 22.000 tấn/năm; năm 1989, lần đầu tiên xuất khẩu thép sang thị trường các nước Đông Nam Á.

mỏ thiếc Quỳ Hợp Chuyên gia Liên Xô làm việc tại mỏ thiếc Quỳ Hợp (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

e) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1986 - 1990, việc Nhà nước điều chỉnh mục tiêu theo hướng đẩy mạnh đầu tư cho 3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đã mang lại cơ hội cho công nghiệp hóa chất với các sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu... phát triển mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do điểm xuất phát tương đối thấp, tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức độ vừa phải, khoảng 6% mỗi năm.

Thời kỳ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, Bộ Công nghiệp nặng được thành lập lại trên cơ sở cơ chế quản lý mới. Nhà nước đã thành lập hai tổng công ty (Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất, Tổng Công ty Hóa chất công nghiệp và Tiêu dùng), quản lý các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Hóa chất. Ngành Công nghiệp hóa chất đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt mức gần 20%/năm. Công nghiệp địa phương chiếm tỷ trọng xấp xỉ 57% tổng giá trị sản lượng toàn ngành; trong đó các doanh nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 31%. Khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tới trên 1/4 giá trị tổng sản lượng năm 1995 của toàn ngành.

Mặc dù khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó 2 tổng công ty hóa chất chiếm 43%.

f) Ngành Dệt may, Da giày

Cho đến nửa cuối những năm 1980, ngành Dệt may Việt Nam chỉ quan hệ chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Với Liên Xô, theo Hiệp định Việt Nam ký với Liên Xô ngày 19/5/1980, mỗi năm Liên Xô cung cấp cho Việt Nam 6 vạn tấn bông, một nửa giá trị số bông đó Việt Nam trả bằng sản phẩm may mặc, chủ yếu là quần áo bảo hộ lao động; một nửa số bông còn lại chính là tiền công, được dùng may mặc phục vụ nhu cầu nội địa, trong đó có cả lực lượng vũ trang. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như sản xuất quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hệ thống quản lý yếu kém, thiếu vốn,... nhưng việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã giúp mở cửa thị trường, kích cầu kinh tế, giúp cho ngành Dệt may được tiếp cận với những công nghệ mới, phát triển vượt bậc và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tuy nhiên, phải đến khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản lý nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, theo đó cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu; cùng với việc Việt Nam và EU ký kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may, thì ngành này có tăng trưởng mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu hằng năm tăng trên 20%.

Đối với ngành Da giày, Việt Nam chủ yếu thực hiện chương trình gia công mũ giầy cho Liên Xô cũ. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, ngành Da giày đối mặt với cuộc khủng hoảng do không có thị trường, nguồn nguyên liệu. Từ năm 1993, ngành Da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành Da giày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu tư FDI, cùng với đó là sự dịch chuyển các đơn đặt hàng từ Đài Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam. Xuất khẩu sản phẩm da giày đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 1993 - 1995 đạt hơn 20%/năm. Ngày 17/7/1995, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA), tạo điều kiện cho kim ngạch mặt hàng này sang EU tăng nhanh trong giai đoạn sau. Năm 1995 đạt trên 480 triệu USD, đến năm 1999 đã tăng hơn gấp đôi, đạt trên 1,3 tỉ USD.

Chiến lược tăng tốc dệt may

Năm 1991, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhiều doanh nghiệp dệt may gặp khủng hoảng vì chưa thích ứng được với vấn đề tự tìm kiếm khách hàng.

Nhưng năm 1992, Việt Nam và EU ký kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may; đồng thời Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; cho phép mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do Nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu. Nghị định số 114/HĐBT và Hiệp định Buôn bán hàng dệt may đã “chắp cánh” sản xuất và xuất khẩu. Năm 1995, với việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, đã mở đường cho sự ra đời của Chiến lược phát triển toàn ngành; tăng tốc đầu tư trang thiết bị hiện đại, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Kết quả, chỉ trong 8 năm, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng gấp 12 lần, từ 158 triệu USD năm 1992 lên 1,9 tỉ USD năm 2000.

Danh mục

Tùy chỉnh